F. Engels
T́nh cảnh giai cấp công nhân Anh

KẾT QUẢ

Ta đă nghiên cứu khá tỉ mỉ điều kiện sinh sống của giai cấp công nhân ở các thành phố Anh, giờ hăy rút ra kết luận từ những sự kiện đó, rồi đối chiếu các kết luận ấy với t́nh h́nh thực tế. Hăy xem, bản thân những người công nhân sống trong hoàn cảnh ấy đă trở nên thế nào, đă thành những con người thế nào, trạng thái thể chất, trí lực và đạo đức của họ ra sao.

Khi một kẻ gây thiệt hại đến thể chất của người khác, dẫn tới tử vong, ta gọi đó là kẻ giết người; nếu thủ phạm biết rằng thiệt hại đó sẽ làm chết người, ta gọi đó là mưu sát. Nhưng nếu xă hội1* đẩy hàng trăm người vô sản vào một t́nh cảnh khiến họ nhất thiết phải chết sớm, chết không b́nh thường, chết một cách cưỡng bức, giống như bị giết bằng gươm hoặc đạn; nếu xă hội tước những phương tiện sinh hoạt cần thiết khỏi tay hàng ngh́n người, đặt họ vào những điều kiện không thể sinh tồn; nếu xă hội dùng bàn tay mạnh mẽ của pháp luật để buộc họ phải sống trong những điều kiện đó, tới khi cái chết xảy ra như một hậu quả tất yếu; nếu xă hội biết quá rơ rằng hàng ngh́n người nhất định sẽ trở thành nạn nhân và sẽ chết, mà vẫn để các điều kiện ấy tồn tại; th́ đó cũng là giết người, cũng như việc một cá nhân giết người; hành động giết người ấy kín đáo và nham hiểm, không ai có thể tự đề pḥng; nó trông không giống hành động giết người, v́ không ai trông thấy thủ phạm, v́ thủ phạm là tất cả mọi người mà lại cũng không phải là ai, v́ cái chết của nạn nhân có vẻ b́nh thường, và việc đó giống một sự sơ suất hơn là một tội ác. Nhưng đó vẫn là hành động giết người. Tôi định chứng minh rằng: xă hội Anh, hàng ngày hàng giờ đều phạm phải cái tội, mà báo chí của công nhân Anh có đầy đủ lư do để gọi là tội giết người có tính xă hội; rằng xă hội Anh đă đặt công nhân vào một t́nh cảnh khiến họ không thể khoẻ mạnh và sống lâu; rằng như vậy là xă hội không ngừng huỷ hoại dần cơ thể của họ và sớm đưa họ xuống mồ. Sau đó tôi phải chứng minh rằng, xă hội biết rơ t́nh h́nh ấy có hại thế nào đối với sức khoẻ và tính mạng của công nhân, nhưng vẫn không làm ǵ để cải thiện nó. Và xă hội biết rằng chế độ do nó thiết lập nên mang lại hậu quả như thế nào, v́ thế hành động của nó không chỉ là giết người, mà c̣n là mưu sát; tôi chứng minh được điều đó, dù chỉ sử dụng những văn kiện chính thức, những báo cáo của Chính phủ và Nghị viện.

Một giai cấp sống trong những điều kiện đă nói ở trên, và thiếu đến cả những tư liệu sinh hoạt cần thiết nhất, th́ không thể nào khoẻ mạnh và sống lâu, điều đó tự nó cũng đă rơ rồi. Tuy nhiên, hăy xem xét lại một lần nữa từng hoàn cảnh một, đặc biệt là về ảnh hưởng của chúng tới t́nh trạng sức khoẻ của công nhân. Bản thân sự tập trung dân cư vào các thành phố lớn đă có hậu quả cực kỳ tai hại: không khí ở London không bao giờ có thể trong sạch, nhiều Ôxy như ở một vùng nông thôn; hai triệu rưởi lồng ngực và hai mươi lăm vạn ḷ bếp, tập trung trên ba bốn dặm vuông, tiêu phí một lượng Ôxy rất lớn; chúng rất khó được bổ sung, v́ cách kiến trúc thành phố tự nó đă khiến việc thông gió rất khó khăn. Khí Carbonic do hô hấp và đốt than sinh ra, v́ khá nặng, nên lưu lại giữa nhà, c̣n luồng khí chính th́ lướt qua trên nóc. Phổi của những người sống trong các nhà đó không nhận đủ lượng Ôxy cần thiết, nên thể chất và trí óc mệt mỏi, sức sống giảm sút. V́ vậy, dân cư những thành phố lớn, dù rất ít mắc bệnh cấp tính, nhất là bệnh viêm các loại, so với người nông thôn sống trong không khí trong lành, sạch sẽ, nhưng phần lớn họ đều mắc bệnh kinh niên. Nếu việc sống trong các thành phố lớn tự nó đă có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, th́ ảnh hưởng tai hại đó của không khí ô uế trong các khu lao động - là nơi, như ta đă thấy, tập trung mọi yếu tố làm cho bầu không khí càng bị uế tạp - sẽ phải to lớn biết chừng nào. Ở nông thôn, không khí tự do lưu thông trên mọi phía, nếu có một hố nước thối ở ngay gần nhà, có lẽ cũng không hại như thế; nhưng ở giữa thành phố lớn, trong các phố và các sân mà bốn phía đều bị xây chắn, và bị cắt đứt mọi ḍng không khí trong lành, th́ t́nh h́nh lại khác. Cặn bă động thực vật bốc lên những khí rất hại cho sức khoẻ, và v́ không có lối thoát tự do, nên các khí ấy tất phải đầu độc bầu không khí. Như vậy th́ rác rưởi và vũng tù trong các khu lao động của những thành phố lớn bao giờ cũng gây hậu quả tai hại nhất cho vệ sinh chung, v́ chính chúng bốc ra những khí độc hại; những hơi bốc lên từ ḍng nước bẩn cũng vậy. Nhưng không chỉ có thế. Cái thực sự khiến người ta phẫn nộ là cách đối xử của xă hội hiện đại đối với quảng đại quần chúng nghèo khổ. Người ta kéo họ về các thành phố lớn, ở đó họ hít thở không khí không trong sạch bằng ở quê hương. Người ta nhét họ vào những khu kém thông gió nhất, do cách xây dựng nhà cửa gây nên. Người ta tước đoạt mọi phương tiện giữ vệ sinh; kể cả nước, v́ muốn đặt ống dẫn nước th́ phải trả tiền, c̣n nước sông th́ đă bẩn đến mức không dùng được. Người ta buộc họ phải vứt ngay ra ngoài đường phố mọi thứ rác rưởi, cặn bă, nước bẩn, cả những thứ bẩn thỉu nhất làm cho người ta lộn mửa, v́ mọi phương tiện để vứt bỏ tất cả những thứ đó cũng bị tước đoạt; vậy là người ta buộc họ phải đầu độc chính nơi ở của ḿnh. Thế vẫn chưa đủ. Mọi thứ tai hại đổ lên đầu kẻ nghèo. Cư dân thành phố nói chung đă ở rất chen chúc, nhưng chính họ lại buộc phải sống chật chội hơn. Phải hít thở không khí ô uế ngoài phố cũng chưa đủ, họ c̣n bị nhét hàng tá người vào một gian pḥng, và không khí họ hít thở ban đêm trở nên hoàn toàn ngột ngạt. Người ta cho họ ở trong những pḥng ẩm thấp, những nhà hầm nước thấm từ dưới lên, những tầng sát mái nước dội từ trên xuống. Người ta xây cho họ những căn nhà mà uế khí không có lối thoát. Người ta cho họ những áo quần xấu, rách tả tơi, bở bục; những thức ăn tồi tệ, làm giả và khó tiêu. Người ta gây cho họ những tâm trạng đối lập mạnh mẽ nhất, những thay đổi đột ngột, lúc th́ lo sợ, lúc th́ hy vọng; người ta dồn đuổi họ như săn thú, không cho họ yên thân và sống cuộc đời yên tĩnh. Người ta tước đoạt của họ mọi thú vui, trừ t́nh dục và rượu chè, và hàng ngày bắt họ làm việc tới kiệt sức về tinh thần cũng như thể chất; do đó luôn đẩy họ ch́m đắm một cách không sao ḱm hăm được, vào hai thú vui duy nhất mà họ có. Nếu bằng ấy thứ c̣n chưa đủ, nếu họ vượt qua được tất cả những cái đó, th́ họ lại sa vào cảnh thất nghiệp trong thời gian khủng hoảng, nó làm cho họ mất nốt chút ǵ c̣n lại.

Trong t́nh trạng đó, giai cấp nghèo khổ nhất ấy làm sao có thể khoẻ mạnh và sống lâu? Trong t́nh trạng đó, c̣n có thể trông đợi ǵ, ngoài tỉ lệ tử vong cực kỳ cao, bệnh dịch hoành hành liên miên, sự ngày càng tàn lụi về thể lực của nhân dân lao động? Hăy xem thực tế thế nào.

Ở đâu ta cũng thấy những bằng chứng xác nhận rằng: nhà ở của người lao động, nằm trong các khu tồi tàn nhất của thành phố, cộng với điều kiện sinh hoạt của họ, là nguồn gốc của bao nhiêu tật bệnh. Tác giả bài báo đă dẫn ở trên, đăng trên tạp chí "Artisan", nhận định hoàn toàn đúng: bệnh phổi là kết quả tất yếu của t́nh cảnh ấy, trên thực tế, đó là bệnh thường gặp nhất trong công nhân. Qua vẻ tiều tụy của rất nhiều người đi trên phố, ta thấy rơ rằng: không khí tồi tệ ở London, nhất là các khu lao động, đă khiến bệnh lao phổi phát triển rất dễ dàng. Sáng sớm, vào giờ mọi người đi làm, nếu dạo qua các phố, th́ phải ngạc nhiên v́ gặp quá nhiều người trông như bị lao phổi hoặc gần như thế. Ngay ở Manchester người ta trông cũng không đến nỗi như vậy; những bóng ma nhợt nhạt, gầy c̣m, ngực lép, mắt sâu đó, mà người ta gặp ở mỗi bước đi; những bộ mặt tiều tụy, uể oải, mất hết nhựa sống ấy, tôi không thấy ở đâu nhiều như London; dù ở các thành phố công nghiệp miền Bắc, hàng năm lao phổi cũng giết hại khá nhiều người. Cùng với lao phổi, không kể các bệnh phổi khác và bệnh sốt phát ban, trước hết phải nói đến thương hàn, là bệnh hoành hành dữ dội nhất trong nhân dân lao động. Cái tai hoạ phổ biến ấy, theo báo cáo chính thức về t́nh h́nh vệ sinh của giai cấp công nhân, là một hậu quả trực tiếp của t́nh trạng nhà cửa tồi tàn, không thoáng khí, ẩm thấp và bẩn thỉu. Đừng quên rằng báo cáo này là do những thầy thuốc bậc nhất của Anh, dựa trên tài liệu của một số thầy thuốc khác mà viết ra; nó khẳng định rằng chỉ cần một cái sân không thoáng khí, một ngơ cụt không có cống thoát nước, là đủ gây ra bệnh sốt, và thường th́ lúc nào cũng vậy, nhất là khi dân cư ở chật chội và có chất hữu cơ thối rữa gần đấy. Bệnh sốt này hầu như ở đâu cũng có tính chất giống nhau, và hầu như trường hợp nào cũng biến thành thương hàn rơ rệt. Bệnh ấy thường thấy ở những khu lao động trong mọi thành phố lớn, ở cả một số phố xây dựng tồi và không được săn sóc trong những điểm dân cư nhỏ hơn, và lan truyền mạnh nhất trong các khu nhà ổ chuột, tuy rằng tất nhiên nó cũng t́m được nạn nhân cá biệt trong các khu tốt hơn. Nó đă hoành hành ở London khá lâu, năm 1837, nó phát triển đặc biệt dữ dội, do đó mà báo cáo chính thức nói trên được ra đời. Theo báo cáo hàng năm của bác sĩ Southwood Smith tại Bệnh viện Sốt London, năm 1843 có 1462 bệnh nhân điều trị, nhiều hơn bất cứ năm nào trước đó 418 người. Trong các vùng ẩm thấp và bẩn thỉu của các khu phía bắc, đông và nam London, bệnh ấy hoành hành đặc biệt dữ dội. Bệnh nhân phần nhiều là công nhân mới từ nông thôn ra, trên dọc đường, và ngay ở London, họ phải chịu mọi thiếu thốn khổ cực: ngủ ngoài đường, quần áo phong phanh, đói khát, không t́m được việc làm, cuối cùng th́ mắc bệnh sốt. Lúc được đưa vào viện, họ yếu đến nỗi phải dùng rất nhiều rượu vang, rượu cognac, các chế phẩm ammoniac và nhiều chất kích thích khác. Số chết lên tới 16,5% tổng số bệnh nhân. Ở Manchester cũng có bệnh sốt ác tính ấy: trong những khu lao động tồi tàn nhất ở thành phố cũ, khu Ancoats, khu Tiểu Ireland, v.v., nó hầu như chưa bao giờ dứt hẳn; tuy nhiên ở đây, cũng như các thành phố của Anh nói chung, nó không lan tràn dữ dội như người ta tưởng. Ngược lại, ở Scotland và Ireland, thương hàn hoành hành dữ dội ngoài sức tưởng tượng; ở Edinburgh và Glasgow năm 1817, thời ḱ nạn đói bùng phát, năm 1826 và 1837, sau các cuộc khủng hoảng thương nghiệp, nó lan tràn đặc biệt mạnh, mỗi lần kéo dài khoảng ba năm rồi mới ngớt đi. Ở Edinburgh, nạn dịch năm 1817 có 6000 người, nạn dịch năm 1837 có 10.000 người mắc bệnh; mỗi lần dịch tái phát th́ không chỉ số người ốm, mà cả mức độ dữ dội của bệnh và tỉ lệ tử vong đều tăng2*. Nhưng sự ác liệt của dịch ở những thời ḱ trước không thấm vào đâu, so với lúc bệnh hoành hành sau cơn khủng hoảng năm 1842: 1/6 tổng số dân nghèo Scotland mắc bệnh, những người ăn mày lang thang truyền bệnh từ nơi này qua nơi khác một cách nhanh chóng lạ thường; nhưng bệnh không đụng đến các giai cấp trung đẳng và thượng đẳng của xă hội. Trong hai tháng, số người mắc bệnh nhiều hơn cả mười hai năm về trước. Ở Glasgow năm 1843, 12% dân số, tức là 32.000 người mắc bệnh, trong đó 32% tử vong, trong khi ở Manchester và Liverpool, tỉ lệ tử vong thường không quá 8%. Bệnh nguy kịch vào ngày thứ bảy và ngày thứ mười lăm, lúc này, da bệnh nhân thường bị vàng; tác giả của chúng ta cho là: t́nh trạng ấy chứng tỏ rằng phải t́m nguyên nhân của bệnh cả trong sự hồi hộp và lo lắng về tinh thần3*. Ở Ireland loại dịch này cũng thường xảy ra. Năm 1817-18, trong hai mươi mốt tháng, bệnh viện Dublin đă nhận 39.000 bệnh nhân sốt, và theo lời tỉnh trưởng Alison4* th́ một năm sau, con số thậm chí đă lên tới 60.000. Ở Cork những năm 1817-18, bệnh viện sốt đă phải tiếp nhận 1/7 số dân; ở Limerick cũng thời kỳ đó, 1/4 số dân mắc bệnh, c̣n trong khu nhà ổ chuột Waterford có đến 19/20 toàn bộ dân cư2* bị bệnh.

Khi nhớ lại t́nh cảnh sinh sống của người lao động, nghĩ về việc nhà của họ chật chội thế nào, mỗi xó đều chật ních người ra sao, người khoẻ, người ốm nằm lẫn lộn, chung pḥng, chung giường như thế nào; th́ ta chỉ có thể ngạc nhiên, là một bệnh hay lây như bệnh sốt ấy lại không lan tràn mạnh hơn. Và khi nhớ rằng nhiều người hết sức thiếu thuốc men chạy chữa, nhiều người hoàn toàn không được thầy thuốc chỉ dẫn, và không biết tới những qui định thông thường nhất về việc kiêng khem, th́ ta sẽ thấy là chừng đó người chết vẫn c̣n ít. Bác sĩ Alison, người đă nghiên cứu kỹ bệnh này, cũng như tác giả của báo cáo dẫn ở trên, cho rằng nguyên nhân của nó là hoàn cảnh thiếu thốn khốn khổ của người nghèo: theo ông, chính v́ thiếu thốn và không được thoả măn những nhu cầu thiết yếu nên cơ thể dễ nhiễm bệnh, và dịch thường trở nên đặc biệt nguy hiểm và lan truyền nhanh chóng. Ông chứng minh rằng ở Scotland cũng như Ireland, trong mỗi thời kỳ thiếu thốn do khủng hoảng thương nghiệp hoặc mất mùa, đều có dịch thương hàn, và nó hầu như chỉ hoành hành trong giai cấp công nhân. Đáng chú ư là: theo ông, đa số bệnh nhân thương hàn đều là người chồng, người cha, những người đặc biệt cần cho gia đ́nh họ; nhiều thầy thuốc Ireland mà ông trích dẫn cũng xác nhận như vậy.

C̣n một loạt bệnh khác có nguyên nhân từ ăn uống hơn là điều kiện cư trú của công nhân. Thức ăn của họ nói chung rất khó tiêu, hoàn toàn không hợp với trẻ nhỏ; nhưng họ không có tiền và th́ giờ để t́m những thứ tốt hơn. Ngoài ra, một tập quán rất phổ biến là cho trẻ con dùng rượu, thậm chí là thuốc phiện. Hai cái đó, cộng với những điều kiện sinh sống khác có hại cho sự phát triển thể lực của trẻ con, gây ra đủ thứ bệnh về đường tiêu hoá, để lại vết tích suốt đời. Hầu hết công nhân ít nhiều đều mắc chứng tiêu hoá kém, vậy mà họ vẫn buộc phải tiếp tục dùng cái thức ăn đă gây nên chứng ấy cho họ. Vả lại, họ đâu biết là cái ấy có hại? Dù biết đi nữa, làm sao họ có thể áp dụng một chế độ ăn uống phù hợp hơn, khi điều kiện sinh hoạt và thói quen của họ chưa thay đổi? Nhưng tiêu hoá kém là nguồn gốc của nhiều bệnh khác, có ngay từ thuở thơ ấu. Hầu như tất cả công nhân đều mắc bệnh tràng nhạc; cha mẹ bị tràng nhạc sinh ra con cái bị tràng nhạc, nhất là khi đứa bé, mang nọc bệnh do cha mẹ truyền lại, tiếp tục chịu ảnh hưởng của những nguyên nhân ban đầu gây ra bệnh ấy. Hậu quả thứ hai của sự ăn uống không đủ trong thời kỳ đang lớn của trẻ con là bệnh c̣i xương, cũng rất phổ biến trong con cái người lao động. Xương chậm cứng, bộ xương nói chung phát triển chậm; ngoài các biểu hiện thông thường của c̣i xương, c̣n thường thấy chân và cột sống cong vẹo. Không phải nói thêm rằng, những thăng trầm của đời sống công nhân, v́ thương mại đ́nh đốn, nạn thất nghiệp và tiền lương giảm trong thời kỳ khủng hoảng, đă khiến những bệnh ấy nặng thêm. T́nh trạng thiếu ăn nhất thời, mà hầu hết công nhân ít ra cũng trải qua một lần trong đời, làm trầm trọng thêm những hậu quả của chế độ ăn uống kém về chất, dù về lượng th́ vẫn đủ. Con trẻ phải ăn lửng dạ, chính vào lúc chúng cần được bồi dưỡng nhiều nhất; có bao nhiêu trẻ con như vậy trong mỗi ḱ khủng hoảng, và cả thời công nghiệp phồn vinh; th́ nhất định phải trở thành những người yếu đuối, bị tràng nhạc và c̣i xương. Mà quả thực như thế, cái đó có thể thấy qua vẻ bề ngoài của chúng. T́nh trạng bị thiếu chăm sóc của đông đảo con cái người lao động để lại những dấu vết không bao giờ mất, dẫn tới sự suy yếu của toàn bộ giai cấp công nhân. Nếu thêm vào t́nh trạng quần áo người lao động không phù hợp, không chống được cảm lạnh; t́nh trạng phải làm việc cho đến khi bệnh tật vật ngă, t́nh cảnh khốn cùng cực độ của gia đ́nh khi người lao động bị ốm đau, t́nh trạng ốm đau thường không được chạy chữa, th́ sẽ có thể tưởng tượng sơ qua về t́nh h́nh sức khoẻ của những người lao động Anh. Đó là ở đây c̣n chưa nói đến những hậu quả tai hại của việc làm trong một vài ngành lao động cá biệt, trong điều kiện hiện nay.

Ngoài ra, c̣n nhiều nhân tố khác làm cho sức khoẻ của một số đông công nhân giảm sút. Trước hết là tệ nghiện rượu. Mọi thứ hấp dẫn và cám dỗ liên kết lại để lôi kéo người lao động tới chỗ rượu chè. Đối với họ, hầu như chỉ có một nguồn vui duy nhất là rượu mạnh, và mọi thứ dường như cùng nhau đẩy họ đến với nó. Người công nhân khi tan tầm về nhà, đă mệt mỏi ră rời; mà nhà cửa th́ thiếu tiện nghi, lạnh lùng, ẩm thấp, bẩn thỉu; anh ta rất cần tiêu khiển, cần cái ǵ đó để cảm thấy c̣n đáng làm việc, cái ǵ đó làm dịu được viễn cảnh của ngày mai khổ cực; sự mệt mỏi, bực dọc và ưu phiền của anh ta, một phần do sức khoẻ kém, nhất là v́ tiêu hoá không tốt gây ra, đă tăng đến cực độ, do tất cả các điều kiện sinh hoạt khác của anh ta: đời sống bấp bênh, phụ thuộc vào mọi thứ may rủi, không thể tự làm ǵ để cải thiện t́nh cảnh của ḿnh; cơ thể của anh ta, suy yếu v́ không khí và thức ăn tồi tệ, đ̣i hỏi mănh liệt một chất kích thích nào đó từ bên ngoài; nhu cầu xă giao của anh ta chỉ có thể được thoả măn ở quán rượu, v́ không c̣n nơi nào khác để anh ta gặp bạn bè. Thế th́ anh ta làm sao tránh được sự lôi cuốn mạnh mẽ của rượu và chống lại được sự cám dỗ ấy? Ngược lại, ở hoàn cảnh ấy, phần lớn người lao động, do nhu cầu thể chất và tinh thần, nhất định phải sa vào rượu chè. Ngoài các lí do có thể nói là tự nhiên ấy, c̣n cả gương xấu của số đông, sự thiếu giáo dục, không thể giữ cho thanh niên tránh khỏi cám dỗ; nhiều khi lại là ảnh hưởng trực tiếp, khi cha mẹ nghiện rượu tự ḿnh đem rượu cho con uống; niềm tin rằng: nhờ hơi men có thể lăng quên, ít ra là trong vài giờ, những khổ cực và áp bức của cuộc đời; và c̣n hàng trăm t́nh huống khác, chúng tác động mạnh đến nỗi thật không thể trách người lao động v́ họ thích uống rượu. Ở đây nghiện rượu không c̣n là một tật xấu, mà người mắc phải có thể bị chê trách; nó là một hiện tượng tất nhiên, hậu quả không thể tránh khỏi của những điều kiện nhất định, tác động tới một đối tượng mất hết ư chí của ḿnh. Phải chịu trách nhiệm về việc này, chính là những kẻ đă biến người lao động thành đối tượng như thế. Nhưng bản thân sự nghiện rượu khiến thể xác và tinh thần của nạn nhân phải chịu tác động hủy hoại, điều đó cũng tất nhiên như việc đại đa số công nhân nghiện rượu. Nó làm tăng nguy cơ mắc các bệnh do điều kiện sinh hoạt của công nhân gây nên; tạo điều kiện cực ḱ thuận lợi cho bệnh phổi, bệnh đường ruột, kể cả thương hàn, phát sinh và lan rộng.

Một nguyên nhân khác của t́nh trạng sức khỏe tệ hại của giai cấp công nhân là: khi ốm đau, họ không thể được thầy thuốc giỏi cứu chữa. Thực ra, một số cơ quan từ thiện đă t́m cách bù đắp thiếu sót ấy; như bệnh viện Manchester, hàng năm chữa cho 22.000 bệnh nhân, trong đó có một số được điều trị ngay tại bệnh viện, số khác được khám và cấp thuốc. Nhưng với một thành phố mà Gaskell5* ước lượng là hàng năm có đến 3/4 dân số cần được chăm sóc y tế, th́ điều ấy có thấm vào đâu? Bác sĩ ở Anh lấy tiền khám chữa bệnh rất cao, người lao động không trả nổi. Do đó họ đành không chạy chữa ǵ, hoặc buộc phải t́m đến những tên lang băm lấy công rẻ, và những thứ thuốc bịp bợm, chung quy lợi ít hại nhiều. Trong tất cả các thành phố ở Anh có rất nhiều kẻ như vậy, họ kiếm khách trong những giai cấp nghèo khổ nhất, bằng mọi thứ quảng cáo, áp-phích, và các mánh khoé khác. Ngoài ra, người ta c̣n bán rất nhiều thứ "thuốc được cấp bằng" (patent medicines), trị bách bệnh: Thuốc viên Morrison, Thuốc viên Bổ khí Parr, Thuốc viên Bác sĩ Mainwaring và hàng ngàn loại thuốc viên, tinh dầu, dầu thơm khác; cái nào cũng có tác dụng chữa khỏi đủ thứ bệnh. Những thuốc ấy thực ra ít có chất gây hại trực tiếp, nhưng dùng lâu và dùng nhiều th́ vẫn có hại cho cơ thể; và v́ người lao động, vốn không thạo về thuốc men, lại được tuyên truyền là phải dùng chúng càng nhiều càng tốt, nên không có ǵ lạ khi họ nốc hàng loạt thuốc ấy, mà chẳng biết có nên hay không. Nhiều khi chủ xưởng Thuốc viên Bổ khí Parr trong một tuần bán được đến 20-25 ngh́n hộp thuốc thần hiệu ấy, thứ thuốc mà người này dùng để trị táo bón, người kia dùng để chữa ỉa chảy, người khác uống khi bị sốt, suy nhược toàn thân và mọi loại bệnh. Cũng như nông dân Đức đến những mùa nào đó th́ đặt bầu giác hoặc chích máu, công nhân Anh uống những "thuốc được cấp bằng" chỉ để làm hại chính ḿnh, đồng thời làm đầy túi tiền của các chủ xưởng bào chế. Trong đó, có hại bậc nhất là một thứ thuốc nước, chế bằng các chất thuốc phiện, chủ yếu là laudanum6, và đem bán rộng răi với cái tên "dung dịch bổ Godfrey". Những phụ nữ làm việc ở nhà và phải nuôi con ḿnh hoặc con người khác, thường cho trẻ uống thứ thuốc ấy để chúng ngủ yên, hoặc như nhiều người tưởng, để chúng khoẻ thêm. Người ta thường cho trẻ con dùng thuốc ấy ngay từ khi mới đẻ, không hề để ư đến loại thuốc "bổ" ấy có hại hay không, và cứ tiếp tục cho uống đến khi chúng chết. Cơ thể đứa trẻ càng ít thụ cảm với tác dụng thuốc phiện th́ người ta càng tăng liều dùng. Nếu thuốc ấy không có tác dụng nữa th́ họ cho trẻ uống laudanum nguyên chất, thường một lần 15-20 giọt. Viên dự thẩm ở Nottingham đă xác nhận trước một tiểu ban của chính phủ7* rằng, theo lời một dược sĩ, th́ trong một năm hắn đă dùng đến 13 tạ si-rô để chế ra "dung dịch bổ Godfrey". Cách điều trị ấy gây ra hậu quả thế nào đối với trẻ con, điều đó cũng dễ thấy. Chúng dần trở nên xanh xao, uể oải, yếu ớt, đa số chết dưới hai tuổi. Thứ thuốc này rất thông dụng trong mọi thành phố lớn và khu công nghiệp ở Anh.

Hậu quả của tất cả những cái ấy là thể lực của người lao động suy yếu toàn diện. Trong họ, rất ít người khoẻ mạnh, vạm vỡ và không tật bệnh; ít ra là trong số công nhân công nghiệp, phần lớn làm việc ở những nơi tù túng, và ở đây cũng chỉ nói về họ thôi. Hầu hết họ đều yếu ớt, vóc người cứng chắc nhưng không mạnh mẽ, gầy g̣, xanh xao, bắp thịt không nở nang, trừ những bắp thịt phải đặc biệt căng sức khi làm việc. Hầu hết đều mắc bệnh khó tiêu hoá, v́ vậy ít nhiều đều mắc chứng ưu tư, buồn rầu, hay cáu gắt. Cơ thể họ suy nhược, sức đề kháng kém, do đó lúc nào cũng có thể làm mồi cho mọi bệnh tật. Cũng v́ vậy họ mau già và chết yểu. Các bản thống kê người chết là một bằng chứng không thể chối căi về điểm ấy.

Theo báo cáo của G. Graham, chủ nhiệm sở đăng kư t́nh h́nh công dân, tỉ lệ tử trên toàn nước Anh và Wales hàng năm là gần 2,25%, tức là mỗi năm, cứ 45 người th́ có 1 người chết8*. Ít ra đó là con số trung b́nh trong những năm 1839-40; các năm sau có thấp hơn một chút, cứ 46 người có 1 người chết. Nhưng ở các thành phố lớn th́ khác hẳn. Tôi có trong tay những bản thống kê chính thức về số tử vong (công bố trên báo "Manchester Guardian" số ra ngày 31 tháng Bảy 1844), theo đó th́ tỉ lệ tử ở vài thành phố lớn là như sau: ở Manchester, kể cả Salford và Chorlton th́ cứ 32,72 người có 1 người chết, không kể hai vùng đó th́ cứ 30,75 người có 1 người chết; ở Liverpool, tính cả vùng ngoại ô West-Derby th́ cứ 31,9 người có 1 người chết, không tính vùng đó th́ cứ 29,9 người có 1 người chết; trong khi theo các số liệu tổng hợp chung cho Cheshire, Lancashire và Yorkshire, các vùng có nhiều khu nông nghiệp hoặc bán nông nghiệp và nhiều thành phố nhỏ, với tổng số dân là 2.172.506 người, th́ tỉ lệ người chết là 1/39,8. Có thể thấy điều kiện sống của người lao động ở các thành phố tồi đến thế nào, qua số tử vong ở Prescott (Lancashire); đó là khu vực cư trú của công nhân mỏ than, và v́ công việc trong hầm mỏ ảnh hưởng không tốt lắm đối với sức khoẻ, cho nên t́nh trạng sức khoẻ ở khu này kém hơn các khu nông nghiệp. Nhưng ở đây công nhân sống ở nông thôn, và tỉ lệ tử chỉ là 1/47,54, so với mức trung b́nh của cả nước Anh th́ thấp hơn tới gần 2,5%. Tất cả thông tin trên đều được lấy trong những bản thống kê tử vong năm 1843. Ở các thành phố của Scotland, con số c̣n cao hơn: ở Edinburgh, trong những năm 1838-39, tỉ lệ tử là 1/29, thậm chí năm 1831, riêng khu thành phố cũ là 1/22; ở Glasgow, theo số liệu của bác sĩ Cowan9* từ năm 1830 tới nay, tỉ lệ tử trung b́nh là 1/30, một số năm là 1/22 hoặc 1/24. Tuổi thọ trung b́nh giảm nhiều chủ yếu ở giai cấp công nhân, c̣n tuổi thọ trung b́nh ở các giai cấp khác th́ tương đối cao hơn, v́ tỉ lệ tử ở các giai cấp thượng đẳng và trung lưu là thấp hơn, việc này được chứng thực từ mọi phía. Mới đây nhất là lời của P. H. Holland, thầy thuốc ở Manchester đă được ủy nhiệm chính thức đi kiểm tra khu Chorlton-on-Medlock10* ở ngoại ô thành phố Manchester. Ông chia các nhà và phố làm ba hạng và có được số tử vong như sau:
PhốNhàTỉ lệ tử
Hạng IHạng I1/51
Hạng II1/45
Hạng III1/36
Hạng II

Hạng I1/55
Hạng II1/38
Hạng III1/35
Hạng IIIHạng IThiếu số liệu
Hạng II1/35
Hạng III1/25
Qua nhiều bản thống kê khác do Holland tŕnh bày, ta thấy rơ rằng tỉ lệ tử ở những phố hạng II cao hơn 18%, ở những phố hạng III cao hơn 68% so với những phố hạng I; tỉ lệ tử ở những nhà hạng II cao hơn 31%, ở những nhà hạng III cao hơn 78% so với những nhà hạng I; trong những phố bẩn thỉu, sau khi được quét dọn th́ tỉ lệ tử giảm đi 25%. Ông kết luận bản báo cáo bằng những lời rất thẳng thắn đối với người tư sản Anh:

"Khi ta thấy có những phố có số tử vong cao gấp bốn lần những phố khác, và có những hạng phố nọ cao gấp đôi những hạng phố kia; khi ta thấy trong những phố tồi tàn, tỉ lệ tử có thể nói là luôn cao, mà trong những phố tốt th́ luôn thấp; th́ không thể không kết luận rằng, hàng năm, rất nhiều đồng loại của chúng ta, hàng trăm láng giềng gần gũi nhất của chúng ta bị sát hại (destroyed), v́ thiếu những biện pháp dự pḥng sơ đẳng nhất".

Trong báo cáo về t́nh h́nh vệ sinh của giai cấp công nhân cũng có nhiều tài liệu chứng minh sự thật như thế. Ở Liverpool năm 1840, tuổi thọ trung b́nh của các giai cấp trên (gần với giai cấp thượng lưu, những người làm nghề tự do, v.v.) là 35, trong giới buôn bán và các thợ thủ công khá giả là 22 tuổi, c̣n với công nhân, người làm công nhật, và người lao động làm thuê nói chung, th́ chỉ có 15 tuổi. Các báo cáo của nghị viện cũng có rất nhiều sự thật tương tự.

Tỉ lệ tử cao chủ yếu là v́ trong giới lao động, số trẻ em chết rất cao. Cơ thể non yếu của đứa trẻ ít có khả năng chống đỡ nhất, trước những ảnh hưởng xấu của điều kiện sống kham khổ. T́nh trạng trẻ con bị bỏ vơ vất, khi cả cha lẫn mẹ đều đi làm, hoặc một trong hai người đó đă mất, đă cho thấy ngay tác hại; v́ vậy không lạ ǵ khi thấy, như ở Manchester, theo báo cáo đă dẫn ở trên, hơn 57% con cái của người lao động chết dưới 5 tuổi, trong khi ở các giai cấp thượng đẳng, con số ấy chỉ là 20%; c̣n ở các vùng nông nghiệp, con số trung b́nh về trẻ con chết dưới 5 tuổi, của tất cả các giai cấp, cũng chưa đến 32%11*. Trong bài báo đă nhiều lần dẫn ra của tạp chí "Artisan", ta thấy nhiều tài liệu chính xác hơn về vấn đề này; tác giả đối chiếu con số tử vong ở thành phố và nông thôn do các bệnh của riêng trẻ con, từ đó chứng minh rằng: nói chung, ở Manchester và Liverpool, bệnh dịch làm chết nhiều người gấp 3 lần so với các vùng nông thôn, bệnh thần kinh nhiều gấp 5 lần, bệnh đường ruột nhiều gấp hơn 2 lần; c̣n số ca tử vong v́ các bệnh phổi th́ gấp 2,5 lần. Ở thành phố, số trẻ em chết v́ đậu mùa, sởi, ho gà và bệnh tinh hồng nhiệt nhiều gấp 4 lần; v́ bệnh tràn dịch năo gấp 3 lần; v́ chứng co giật gấp 10 lần. Để thêm một chứng cớ chắc chắn nữa, tôi dẫn ra đây một biểu đồ mà bác sĩ Wade đă trích ở bản báo cáo năm 1832 của tiểu ban nghị viện về công xưởng, trong quyển sách của ông: "Lịch sử giai cấp trung gian và giai cấp công nhân" (xuất bản lần thứ ba, London, 1835).
Độ tuổi tử vong ở 10.000 ngườiDưới 5 5-1920-3940-5960-6970-7980-89 90-99100 trở lên
Ở tỉnh Ruthlandshire, vùng nông nghiệp trong lành2865891 1275129911891428938112 3
Ở tỉnh Essex, vùng nông nghiệp đất lầy31591110 152614139631019630 177123
Ở thành phố Carlisle những năm 1779-87, trước khi có các công xưởng 440891110061201940826 53315322
Ở thành phố Carlisle sau khi có các công xưởng4738930 1261113467772745280 1
Ở thành phố công xưởng Preston494711361379 1114553532298383
Ở thành phố công xưởng Leeds52869271228 1198593512225292
Ngoài các bệnh là hậu quả tất nhiên của việc giai cấp nghèo khổ bị áp bức và bỏ mặc, c̣n nhiều nguyên nhân khác làm tăng số tử vong ở trẻ em. Ở nhiều gia đ́nh, người mẹ cũng đi làm xa nhà như người cha, hậu quả là con cái bị bỏ vơ vất, hoặc bị nhốt một ḿnh trong nhà, hay là bị giao cho những người giữ trẻ thuê. Cho nên không có ǵ lạ nếu hàng trăm đứa trẻ ấy chết v́ đủ thứ tai nạn. Không đâu có nhiều trẻ con chết v́ xe chẹt, v́ ngựa giẫm, chết đuối, chết cháy như các thành phố lớn của Anh. Đặc biệt là trẻ con thường bị chết bỏng v́ lửa hoặc nước sôi; ở Manchester, trong mùa đông, hầu như tuần nào cũng có một vụ; ở London cũng nhiều như vậy; nhưng trên báo chí rất ít thấy những tin ấy: tôi chỉ có được một tin của tờ "Weekly Dispatch" ra ngày 15 tháng Chạp 1844, nói rằng trong tuần từ ngày 1 đến 7 tháng Chạp, đă có sáu vụ như thế. Những đứa trẻ bất hạnh đó chết một cách khủng khiếp như vậy, hoàn toàn là nạn nhân của t́nh h́nh hỗn loạn trong xă hội chúng ta; và của giai cấp có của, kẻ có lợi trong việc duy tŕ t́nh h́nh hỗn loạn ấy. Vậy mà biết đâu, cái chết kinh khủng và đau đớn đó lại là một điều may mắn cho những đứa trẻ ấy, v́ nó đă giúp chúng khỏi phải sống một cuộc đời đầy cực nhọc và nghèo khó, nhiều đau khổ mà ít niềm vui! T́nh h́nh ở Anh đă đến mức ấy, giai cấp tư sản ngày nào cũng đọc những tin như thế trên báo chí mà không hề để ư tới. Nhưng họ sẽ không có quyền phản đối, nếu tôi dựa vào những chứng cớ chính thức và không chính thức vừa được dẫn ra, những chứng cớ mà họ nhất định phải biết rơ, để tố cáo họ đă phạm cái tội giết người có tính xă hội. Họ phải chọn, hoặc là t́m cách chấm dứt t́nh trạng kinh khủng ấy, hoặc là để giai cấp công nhân quản lí những công việc công cộng. Nhưng họ không có ư định thực hiện điều thứ hai; mà cái thứ nhất, th́ khi nào họ c̣n là tư sản, c̣n bị vướng mắc trong những thành kiến tư sản, khi đó họ vẫn không thể thực hiện. Và nếu giờ đây, sau khi hàng trăm ngh́n nạn nhân đă chết, họ có chút ít biện pháp nhỏ nhặt để dự pḥng cho tương lai, có ban hành "Đạo luật xây dựng thủ đô", ít ra cũng hạn chế phần nào t́nh trạng nhà cửa chen chúc hỗn độn; nếu họ khoe khoang về những biện pháp, không những không đụng đến nguồn gốc của tội ác, mà c̣n không đáp ứng được những yêu cầu thông thường nhất của cảnh sát vệ sinh; th́ họ vẫn không thể nhờ vậy mà rửa sạch tội lỗi của ḿnh. Giờ đây, giai cấp tư sản Anh chỉ có thể lựa chọn: hoặc là tiếp tục nắm chính quyền, bất chấp cái tội giết người không chối căi được đang đè nặng trên vai nó; hoặc là rút khỏi chính quyền, v́ lợi ích của giai cấp công nhân. Cho đến nay, họ vẫn thích con đường thứ nhất.

Hăy chuyển từ t́nh cảnh thể chất sang t́nh cảnh tinh thần của người lao động. Nếu giai cấp tư sản chỉ chăm lo đến đời sống của công nhân, trong chừng mực những cái cần thiết nhất; th́ cũng không nên lấy làm lạ là chúng chỉ thí cho công nhân chút ít giáo dục, vừa đủ để đáp ứng lợi ích của chúng. Mà chút đó có là bao. Các cơ quan giáo dục ở Anh so với số dân th́ c̣n quá ít. Các trường học ban ngày mà giai cấp công nhân có thể đến th́ rất hiếm, chỉ rất ít người có thể lui tới, vả lại những trường ấy rất tồi tàn; giáo viên là những công nhân đă mất sức lao động, hoặc là những người chẳng làm được ǵ, phải đi dạy học để kiếm ăn, đa số họ c̣n thiếu cả những kiến thức cơ sở cần thiết nhất, thiếu cả phẩm chất đạo đức thiết yếu của người thầy, và chẳng hề bị công chúng giám sát. Ở đây, tự do cạnh tranh cũng thống trị, và như thường lệ, người giàu th́ hưởng lợi; c̣n người nghèo th́ chịu thiệt, v́ thật ra họ không c̣n được tự do cạnh tranh, và không đủ kiến thức cần thiết để lựa chọn cho đúng đắn. Không nơi nào có phổ cập giáo dục; trong công xưởng, như ta sẽ thấy, phổ cập giáo dục chỉ có trên danh nghĩa, và trong ḱ họp năm 1843, khi chính phủ muốn hiện thực hóa việc phổ cập trên danh nghĩa ấy, th́ giai cấp tư sản công nghiệp đă cực lực phản đối, dù công nhân ủng hộ mạnh mẽ việc bắt buộc đi học. Ngoài ra, có rất nhiều trẻ em làm việc cả tuần tại xưởng hoặc ở nhà, nên cũng không thể đi học. C̣n các trường buổi tối dành cho những người bận làm việc ban ngày, th́ hầu như chẳng ai học, và chẳng đem lại ích lợi ǵ. Đ̣i hỏi những công nhân trẻ, đă làm kiệt sức suốt mười hai giờ liền, tối đến lại đi học từ tám giờ đến mười giờ, th́ thật quá đáng. Những ai đi học th́ phần lớn đều ngủ ngay trong giờ, điều này được xác nhận qua hàng trăm chứng cớ trong "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em". Dù đă có những trường học chủ nhật, nhưng rất thiếu người dạy; và nó chỉ có thể có lợi với những người đă theo học các trường hàng ngày. Khoảng thời gian giữa hai ngày chủ nhật quá dài: một đứa trẻ ở tŕnh độ thấp, khi học bài mới, không khỏi quên mất bài học tuần trước. "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em" có hàng trăm dẫn chứng về điều này, và chính tiểu ban đă tuyên bố dứt khoát rằng: trường học hàng ngày và trường học chủ nhật đều không thể đáp ứng, dù là một phần nhỏ, nhu cầu của đất nước. Báo cáo ấy nêu ra các dẫn chứng về t́nh trạng dốt nát của giai cấp lao động Anh, một t́nh trạng mà người ta không ngờ là có, kể cả ở những nước như Tây Ban Nha hoặc Ư. Nhưng cũng không thể khác được. Học vấn của công nhân ít hứa hẹn điều tốt lành cho giai cấp tư sản, lại c̣n gây ra cho họ nhiều mối lo sợ. Trong toàn bộ ngân sách khổng lồ 55 triệu Bảng, chính phủ chỉ dành một khoản bé tí là 4 vạn Bảng cho giáo dục quốc dân. Và nếu không có ḷng cuồng tín của các giáo phái - chí ít th́ những cái hại mà nó gây ra cũng không kém những cái lợi mà nó đem lại - th́ chi phí cho giáo dục có lẽ c̣n ít hơn. Nhưng giáo hội Anh đă lập ra các National School13 của họ, và mỗi giáo phái cũng đều có những trường học của ḿnh, với mục đích duy nhất là nắm lấy con em những người đồng đạo, và nếu có thể th́ chộp lấy của các giáo phái khác một linh hồn thơ dại đáng thương. Kết quả là tôn giáo, và chính khía cạnh vô tác dụng nhất của tôn giáo, tức là bác bỏ giáo lí của những tôn giáo khác, đă trở thành môn học quan trọng nhất; đầu óc trẻ con bị nhồi đầy những giáo điều khó hiểu và những điều phiền toái về thần học, ḷng thù hằn giáo phái và sự cuồng tín mê muội được bồi dưỡng từ tuổi thơ ấu; việc rèn luyện tư duy, tri thức và đạo đức th́ bị bỏ bê một cách trắng trợn. Người lao động đă nhiều lần đ̣i Nghị viện lập nên một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn toàn trần tục, c̣n giáo dục tôn giáo th́ để lại cho giới tu hành của từng giáo phái, nhưng đến nay vẫn chưa có Bộ nào thi hành biện pháp ấy. Điều đó là tất nhiên: Bộ trưởng là tôi tớ ngoan ngoăn của giai cấp tư sản, mà giai cấp tư sản th́ chia thành vô số giáo phái, và giáo phái nào cũng sẽ cho công nhân hưởng một nền giáo dục đầy nguy hiểm, với điều kiện là công nhân phải đồng thời tiếp thu một thứ thuốc giải độc, là những giáo lí riêng của các giáo phái ấy. V́ tới nay các giáo phái vẫn giành nhau quyền thống trị, nên giai cấp công nhân vẫn chưa được đi học. Thật thế, các chủ xưởng thường khoe khoang là ḿnh đă dạy cho đại đa số công nhân biết chữ; nhưng qua "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em", ta có thể hiểu cái gọi là biết chữ đó như thế nào. Một người thuộc được các chữ cái th́ cho là ḿnh biết đọc rồi, và các chủ xưởng cũng lấy thế làm yên ḷng. Những phép chính tả của tiếng Anh rất dễ nhầm lẫn; nên đọc sách là cả một nghệ thuật, đ̣i hỏi phải học tập lâu dài; nếu chú ư đến điểm đó, th́ sự thiếu học vấn của công nhân cũng rất dễ hiểu. Rất ít người viết thạo, c̣n viết đúng chính tả th́ đến nhiều người "có học" cũng không làm nổi. Những trường học chủ nhật của giáo hội Anh, của Tân giáo, và theo tôi là cả một số giáo phái khác, nói chung không dạy tập viết, "bởi v́ chủ nhật mà làm việc đó th́ trần tục quá". Mấy ví dụ rút trong "Báo cáo của Tiểu ban điều tra về lao động trẻ em", không may là báo cáo này không nói đến bản thân công nghiệp công xưởng, sẽ chỉ rơ những cách giáo dục khác dành cho công nhân là thế nào.

Grainger, ủy viên của tiểu ban nói: "Ở Birmingham, nói chung những trẻ em mà tôi đă kiểm tra hoàn toàn không có chút kiến thức ǵ có thể tạm gọi là có ích. Dù hầu hết các trường đều chỉ có giáo dục tôn giáo, nhưng cả về phương diện ấy, nói chung chúng cũng rất dốt". Ủy viên Horne nói: "Ở Wolverhampton, tôi đă gặp những trường hợp thế này: một bé gái 11 tuổi đă học ở trường hàng ngày và trường chủ nhật, mà 'chưa bao giờ được nghe nói về một thế giới khác, hay là thiên đường, và cả cuộc sống ở thế giới bên kia' ". Một thiếu niên 17 tuổi, không biết 2 lần 2 là mấy, không biết 2 penny là mấy farthing (1 farthing là 1/4 penny), kể cả khi người ta đặt tiền vào tay nó. Vài em trai chưa bao giờ được nghe nói tới London, và cả Willenhall, một nơi chỉ cách Wolverhampton một giờ đi đường và có giao lưu thường xuyên với nơi này. Một vài em chưa bao giờ nghe đến tên nữ hoàng, hoặc những người như Nelson, Wellington, Bonaparte. Nhưng đáng chú ư là, chính những đứa trẻ chưa bao giờ nghe nói ngay cả đến thánh Paul, Moses hoặc Solomon; lại biết rất rơ về cuộc đời, hành vi và tính nết của tên cướp đường Dick Turpin, và nhất là của Jack Sheppard, kẻ trộm đă lừng danh về vượt ngục. "Một thiếu niên 16 tuổi không biết 2 lần 2 là mấy, và 4 farthing là bao nhiêu tiền; một cậu khác 17 tuổi quả quyết rằng 10 farthing là 10 nửa penny; c̣n cậu thứ ba cũng 17 tuổi, khi được hỏi mấy câu rất đơn giản, th́ chỉ trả lời gọn lỏn là 'không biết ǵ cả' (he was ne judge o'nothin)" (Horne, "Báo cáo", Phụ lục, phần thứ II, Q. 18, số 216, 217, 226, 233, v.v.).

Những thiếu niên ấy, trong suốt 4-5 năm, bị người ta nhồi cho những giáo lí tôn giáo, cuối cùng chẳng biết ǵ hơn lúc đầu.

Một đứa trẻ "theo học đều ở trường chủ nhật trong năm năm, không biết Jesus là ai, dù đă từng nghe tên đó; chưa bao giờ được nghe nói tới 12 tông đồ, cũng như đến Samson, Moses và Aaron, v.v." (Như trên, Văn kiện, tr.q. 39, I.33). Một đứa khác "đi học đều tại trường chủ nhật trong sáu năm, biết Jesus là ai, biết ngài đă chết trên thánh giá, nhỏ máu ḿnh" để chuộc tội cho Chúa cứu thế của chúng ta, "mà chưa từng được nghe nói tới thánh Peter, hoặc thánh Paul" (Như trên, tr.q. 36, I.46). Đứa thứ ba "trong bảy năm học ở nhiều trường chủ nhật khác nhau, chỉ có thể đọc những chữ dễ, đơn âm trong những cuốn sách mỏng; đă được nghe nói về 12 tông đồ, nhưng không rơ Peter và John có trong số đó không, nếu có th́ đó là thánh John Wesley" (người sáng lập phái Giám lí), v.v. (Như trên, tr.q. 34, I.58). Khi hỏi "Jesus là ai", Horne c̣n được trả lời như sau: "là Adam", "là một tông đồ", "là con trai Chúa cứu thế" (he was the Saviour's Lord's son); và một cậu 16 tuổi c̣n nói: "đó là một ông vua ở London, từ thuở đă lâu, lâu lắm rồi". ở Sheffield, Ủy viên Symons cho học sinh các trường chủ nhật đọc sách; chúng đều không kể lại được là ḿnh đă đọc những ǵ, và các tông đồ mà chúng vừa đọc là người thế nào. Sau khi ông lần lượt hỏi chúng về các tông đồ, và chẳng có câu trả lời nào đúng, một đứa trẻ có vẻ láu lỉnh kêu lên quả quyết: "Thưa ông tôi biết, đó là những người hủi!" (Symons, "Báo cáo". Phụ lục, phần I, tr. E 22 và tr. tiếp theo).

Ở các khu vực làm đồ gốm và Lancashire, t́nh h́nh cũng như vậy.

Thế là ta thấy được giai cấp tư sản và Nhà nước đă làm ǵ, để giáo dục và đào tạo giai cấp công nhân. May thay, chính điều kiện sinh sống của giai cấp này đă cho họ một thứ giáo dục thực tiễn; không những thay thế toàn bộ cái mớ đồ bỏ được học ở trường, mà c̣n hóa giải các quan niệm tôn giáo nhảm nhí gắn liền với mớ đồ bỏ ấy, và đặt công nhân lên hàng đầu của phong trào toàn dân tộc ở Anh. Sự cùng khốn dạy ta cầu nguyện, và quan trọng hơn nhiều, dạy ta suy nghĩ và hành động. Công nhân Anh hầu như không biết đọc, và viết th́ c̣n yếu hơn, nhưng vẫn biết rất rơ lợi ích của bản thân và lợi ích của toàn dân tộc là thế nào; họ cũng biết lợi ích của giai cấp tư sản là ǵ, và họ có thể trông đợi ǵ ở giai cấp ấy. Không biết viết th́ họ nói, và nói trước công chúng; không biết số học, nhưng họ hiểu rơ những khái niệm về kinh tế chính trị học, đủ để nh́n thấu chủ trương của một người tư sản tán thành băi bỏ các thuế ngũ cốc, và phản bác y; không hiểu các vấn đề trên trời mà các cha xứ cố gắng dạy, nhưng về những vấn đề trần thế, chính trị và xă hội th́ họ hiểu rơ ràng. Sau đây, ta sẽ c̣n trở lại điểm này; giờ hăy chuyển sang những đặc điểm về đạo đức của công nhân Anh.

Điều hoàn toàn rơ ràng là việc giáo dục đạo đức trong mọi trường học ở Anh, vốn bị gắn chặt với giáo dục tôn giáo, nên không thể đem lại kết quả ǵ tốt hơn so với chính việc giáo dục tôn giáo. Những nguyên tắc đơn giản điều tiết các quan hệ giữa người với người đă bị rối loạn kinh khủng, dưới điều kiện xă hội hiện tồn, và bởi cuộc chiến tranh của mọi người chống mọi người; những nguyên tắc ấy nhất định phải trở nên rối rắm và xa lạ đối với các công nhân không có học vấn, khi người ta trộn chúng với những giáo lí tôn giáo khó hiểu, và tŕnh bày chúng dưới h́nh thức mệnh lệnh độc đoán, chẳng có cơ sở ǵ. Theo lời xác nhận của mọi người có uy tín, nhất là của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em, th́ các trường học hầu như không có ảnh hưởng đến đạo đức của giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản Anh ích kỉ tới mức ngu xuẩn và thiển cận, thậm chí không muốn truyền bá cho công nhân cái đạo đức hiện đại, được họ tạo ra v́ lợi ích của ḿnh, và để bảo vệ bản thân ḿnh! Kể cả việc chăm lo cho lợi ích của chính ḿnh như thế, mà giai cấp tư sản ươn hèn, lười biếng cũng coi là thừa. Rồi sẽ tới lúc họ hối hận về điều đó nhưng đă quá muộn. Dù sao th́ giai cấp tư sản cũng không nên phàn nàn, nếu người lao động không biết ǵ về đạo đức ấy, và không tuân theo nó.

Vậy là người lao động, không chỉ về thể chất và trí tuệ, mà cả về đạo đức, đều bị giai cấp thống trị bỏ rơi, mặc cho số mệnh. Lí lẽ duy nhất mà giai cấp tư sản dùng để chống lại công nhân, khi công nhân tới quá gần chúng, đó là pháp luật; dường như công nhân cũng là súc vật không có lí tính, người ta chỉ dùng một phương thức giáo dục đối với họ: đó là cái roi, một sức mạnh thô bạo, không thuyết phục mà chỉ dọa nạt. Thế nên không có ǵ lạ: khi công nhân bị đối xử như súc vật, nếu không thực sự trở thành giống như súc vật; th́ họ chỉ giữ được ư thức và t́nh cảm của con người, nhờ ḷng căm thù sôi sục, và sự phẫn nộ âm thầm nhưng không ǵ có thể dập tắt, đối với giai cấp tư sản cầm quyền. Họ chỉ c̣n là con người, chừng nào trong ḷng họ c̣n căm giận giai cấp thống trị; một khi họ ngoan ngoăn để cho người ta tṛng ách lên cổ, và chỉ t́m cách sống dễ chịu hơn đôi chút dưới cái ách đó, mà không nghĩ đến cách bẻ găy nó đi, th́ họ lại biến thành súc vật.

Để giáo dục giai cấp công nhân, giai cấp tư sản chỉ làm có thế thôi, và nếu xét tới các mặt khác trong điều kiện sinh sống của công nhân, th́ ta sẽ không thể trách họ là sao lại thù ghét giai cấp thống trị. Ở nhà trường, công nhân đă không hấp thụ được giáo dục đạo đức, họ cũng không thể hấp thụ nó trong các điều kiện sinh hoạt khác; ít ra là cái giáo dục đạo đức theo con mắt của giai cấp tư sản là có giá trị ǵ đó. Địa vị của người lao động, và toàn bộ hoàn cảnh xung quanh họ, đều đẩy họ đến chỗ mất đạo đức. Họ nghèo, cuộc sống đối với họ không có ǵ thú vị, họ hầu như không được hưởng thú vui nào; với họ, sự trừng trị của luật pháp cũng có ǵ đáng sợ nữa đâu, vậy th́ tại sao họ phải hạn chế những thèm muốn của ḿnh? Tại sao họ phải để cho bọn nhà giàu hưởng thụ của cải của chúng, tại sao lại không chiếm lấy cho ḿnh một phần của cải ấy? Người vô sản v́ cớ ǵ mà không đi ăn cắp? Khi nói đến "quyền tư hữu tài sản là thiêng liêng", giai cấp tư sản thấy rất hay, rất êm tai; nhưng với kẻ không có tài sản ǵ, th́ tính thiêng liêng ấy tự nó không c̣n nữa. Tiền bạc là thượng đế trên đời này. Nhà tư sản lấy tiền từ tay người vô sản và trên thực tế, làm cho người vô sản biến thành kẻ vô thần. Có ǵ lạ khi thấy người vô sản trở nên vô thần, không c̣n tôn kính sự thiêng liêng và uy lực của thượng đế trên thế gian. Và khi sự khốn cùng của người vô sản tăng lên đến mức hoàn toàn thiếu những cái cần nhất cho cuộc sống, đến mức phải ăn xin và nhịn đói, th́ xu hướng coi thường mọi trật tự xă hội cũng tăng lên. Chính giai cấp tư sản biết rơ điều đó. Symons nhận định14*: sự nghèo khổ có tác động phá hoại đối với tinh thần, cũng như nghiện rượu đối với cơ thể; và viên tỉnh trưởng Alison đă nói rất rơ cho giai cấp có của biết: sự áp bức xă hội nhất định phải mang lại hậu quả ǵ cho công nhân15*. Sự cùng khổ chỉ cho người lao động lựa chọn: hoặc chết dần chết ṃn v́ đói, hoặc tự sát ngay; hoặc lấy những ǵ anh ta cần ở nơi nào có thể, nói trắng ra là ăn cắp. Và không nên ngạc nhiên khi thấy đa số thích ăn cắp hơn chết đói hoặc tự sát. Đương nhiên, trong những người lao động, nhiều người có đạo đức tốt, cả khi bị dồn đến bước đường cùng vẫn không chịu ăn cắp, đó chính là những người chết đói hoặc tự sát. Tự sát ngày xưa là một đặc quyền đáng mơ ước của các giai cấp thượng đẳng, ngày nay đă thành cái mốt ngay cả trong những người vô sản ở Anh, và rất nhiều người nghèo tự sát để thoát nỗi khốn cùng mà họ không có cách nào khác để thoát khỏi.

Nhưng cuộc sống bấp bênh, kiếm ngày nào ăn ngày ấy, tóm lại là mọi cái làm cho người công nhân Anh trở thành người vô sản, c̣n phá hoại đạo đức của họ ghê gớm hơn sự nghèo khổ. Các tiểu nông ở Đức phần nhiều cũng nghèo, cũng thường thiếu thốn, nhưng ít lệ thuộc vào may rủi hơn; ít ra họ cũng có chút ǵ đó ổn định. Người vô sản hoàn toàn không có ǵ ngoài hai bàn tay của ḿnh, hôm qua kiếm được ǵ th́ hôm nay ăn nấy, phụ thuộc vào mọi sự may rủi, không có ǵ đảm bảo là họ sẽ kiếm đủ tiền để thỏa măn những nhu cầu cấp bách nhất; v́ mỗi cuộc khủng hoảng, mỗi sự thất thường của ông chủ đều có thể làm mất miếng bánh ḿ của họ; người vô sản đó bị đặt vào một t́nh cảnh đáng phẫn nộ nhất và vô nhân đạo nhất mà con người có thể tưởng tượng. Đời sống của nô lệ ít ra cũng được bảo đảm v́ lợi ích của chủ nô, người nông nô dù sao cũng có một mảnh đất để tự nuôi ḿnh, ít nhất họ cũng được bảo đảm để không chết đói; c̣n người vô sản chỉ có thể nhờ cậy vào chính ḿnh, mà người ta lại không cho anh ta sử dụng sức lực của ḿnh, để anh ta có thể hoàn toàn nhờ cậy vào nó. Mọi cái người vô sản có thể tự làm để cải thiện hoàn cảnh của ḿnh, chỉ là một giọt nước trong ḍng thác may rủi; anh ta bị lệ thuộc vào ḍng thác ấy, và hoàn toàn không thể khống chế nó. Anh ta là đối tượng thụ động của mọi sự kết hợp do hoàn cảnh tạo ra; và nếu c̣n sống sót được, dù là trong ít lâu, th́ có thể coi là may mắn rồi. Và hiển nhiên là tính khí và cách sống của anh ta đều do những hoàn cảnh đó quyết định: hoặc là anh ta phải cố giữ ḿnh khỏi ch́m xuống đáy ḍng nước xoáy, cố cứu văn nhân phẩm của ḿnh, và muốn vậy th́ chỉ có cách là đấu tranh16* chống giai cấp tư sản, kẻ đă bóc lột anh ta tàn nhẫn đến như vậy rồi phó mặc anh ta cho số mệnh, kẻ muốn bắt anh ta vĩnh viễn phải ở trong t́nh cảnh không xứng với con người; hoặc là anh ta từ bỏ cuộc đấu tranh chống lại t́nh cảnh mà anh ta bị đặt vào, coi cuộc đấu tranh ấy là vô hiệu, và chỉ t́m cách lợi dụng, trong chừng mực có thể, những thời cơ thuận lợi riêng biệt. Với anh ta, việc để dành không có tác dụng, v́ số tiền dành dụm được cùng lắm cũng chỉ đủ nuôi thân trong vài tuần, mà khi anh ta bị thất nghiệp th́ không phải chỉ trong vài tuần. Anh ta không giữ được tài sản trong một thời gian dài, mà nếu giữ được th́ tất nhiên anh ta sẽ không c̣n là công nhân nữa, và người khác sẽ thế chỗ anh ta. Vậy th́ khi kiếm được đồng lương khá, anh ta c̣n làm ǵ khác ngoài việc dùng nó để sống dễ chịu hơn? Người tư sản Anh ngạc nhiên và tức giận khi thấy người lao động sống "rộng răi" ở thời ḱ lương cao. Nhưng việc người ta hưởng thụ cuộc sống chừng nào c̣n có thể, không những là hoàn toàn tự nhiên, mà c̣n rất hợp lí nữa; chứ họ không dành dụm, v́ làm thế chẳng có lợi ích ǵ, mà sau cùng lại bị mọt và gỉ, tức là bọn tư sản, khoét mất. Nhưng lối sống ấy khiến người ta trụy lạc hơn bất ḱ lối sống nào khác. Lời Carlyle nói về công nhân công nghiệp kéo sợi cũng đúng cho tất cả công nhân công nghiệp Anh:

"Nghề nghiệp của họ luôn như đánh bạc: hôm nay c̣n hưng thịnh, ngày mai đă lụi tàn; họ sống như kẻ đánh bạc: hôm nay c̣n xa hoa, ngày mai đă đói khổ. Nỗi bất măn u uất của kẻ phản loạn giày ṿ họ; đó là t́nh cảm đau khổ nhất có thể có ở một người. Thương nghiệp Anh, với những biến động mang tính toàn cầu của nó, và với thần Proteus "Hơi nước" vô song của nó, đă làm mọi con đường đều trở nên không chắc chắn đối với họ, khiến họ sa vào một ṿng luẩn quẩn; những hạnh phúc bậc nhất của con người như điềm tĩnh, ổn định, thanh b́nh, họ đều không có... Thế giới này với họ không phải là gia đ́nh, mà là nhà tù u ám, đầy những khổ đau, vô nghĩa lí và vô hiệu quả; đầy phẫn nộ, hằn học, oán hận với chính ḿnh và với mọi người. Đó là thế giới xanh tốt, đầy hoa nở, do Thượng đế tạo ra và trị v́; hay là địa ngục âm u sôi sục, đầy mùi sắt và bụi bông, đầy tiếng huyên náo của những kẻ say rượu, đầy phẫn nộ và khổ dịch, do ma quỉ tạo ra và trị v́?"17*

Và tiếp đó, trang 40:

"Nếu bất công, phản bội chân lí, phản bội hiện thực và qui luật tự nhiên là tội ác thật sự duy nhất trên đời, nếu nhận ra rằng ḿnh bị đối xử bất công là cảm giác duy nhất không chịu nổi, th́ vấn đề lớn của chúng ta về t́nh cảnh của người lao động phải là: Nó có công bằng không? Trước hết, bản thân công nhân có coi đó là công bằng không?... Lời nói của họ đă là câu trả lời khá rơ, hành động của họ lại càng rơ... Ḷng phẫn nộ và xu hướng báo thù ác độc chống lại các giai cấp thượng đẳng ngày càng thâm nhập vào các giai cấp bên dưới; sự tôn trọng đối với thế quyền và niềm tin ở những giáo lí của thần quyền ngày càng giảm. Tâm trạng ấy có thể chê trách, có thể trừng phạt; nhưng mọi người phải thừa nhận sự tồn tại của nó, và phải thấy rằng đó là một hiện tượng đáng buồn, và nếu mọi thứ không thay đổi, th́ sẽ thành tai hại".

Về sự kiện, Carlyle rất đúng; ông ta chỉ sai lầm khi chê trách mối căm thù mănh liệt của công nhân đối với những giai cấp thượng đẳng. Mối căm thù ấy, sự phẫn nộ ấy chứng tỏ rằng công nhân cảm thấy t́nh cảnh của họ là vô nhân đạo, rằng họ không cam chịu để bị đối xử như súc vật, rằng sẽ có lúc họ tự giải phóng khỏi xiềng xích của giai cấp tư sản. Có thể thấy điều ấy ở những công nhân không c̣n cảm thấy sự phẫn nộ đó nữa: họ ngoan ngoăn tuân theo số mệnh, sống như thường dân lương thiện, không quan tâm đến những ǵ xảy ra trên đời, giúp giai cấp tư sản rèn đúc những xiềng xích chắc chắn hơn để trói buộc công nhân, về mặt tinh thần, họ vẫn lặng lẽ như trong thời ḱ tiền công nghiệp; vài người khác th́ mặc cho số mệnh, khi mất chỗ dựa về kinh tế th́ cũng mất chỗ dựa về đạo đức, họ sống ngày nào hay ngày ấy, uống rượu mạnh và đi tán gái; trong cả hai trường hợp, họ đều là những con vật. Chính loại người thứ hai này đă có công lớn trong "sự truyền bá nhanh chóng tật xấu", khiến cho giai cấp tư sản đa sầu đa cảm - chính họ đă tạo nên những tiền đề cho t́nh trạng ấy - rất lấy làm tức tối.

Một nguyên nhân khác của sự trụy lạc trong công nhân là tính cưỡng bức của lao động của họ. Nếu lao động sản xuất tự nguyện là thú vui cao quí nhất trong những thú vui mà ta biết, th́ lao động cưỡng bức lại là sự tra tấn nặng nề và nhục nhă nhất. Không ǵ ghê sợ bằng ngày nào cũng thế, từ sáng đến tối, bị ép phải làm những việc ḿnh chán ghét! Những t́nh cảm con người trong công nhân càng mạnh, th́ anh ta càng phải căm ghét công việc của ḿnh, v́ anh ta thấy công việc đó là cưỡng bức, không có mục đích ǵ đối với bản thân ḿnh. Anh ta làm việc v́ cái ǵ? V́ vui thích lao động sáng tạo? V́ bản năng? Quyết không phải. Anh ta làm việc v́ đồng tiền, một vật không liên quan ǵ tới bản thân lao động; anh ta làm việc v́ bị bắt buộc, hơn nữa lại phải làm việc một cách đơn điệu mệt lử trong nhiều giờ liền; đến nỗi chỉ riêng điểm ấy đă đủ khiến cho lao động đối với anh trở thành một cực h́nh ngay từ những tuần đầu, nếu anh c̣n giữ được chút t́nh cảm của con người. Sự phân công lao động c̣n làm cho tác dụng tiêu cực của lao động cưỡng bức tăng lên nhiều lần. Ở hầu hết các ngành, hoạt động của công nhân chỉ c̣n là các thao tác vụn vặt và hoàn toàn cơ giới, lặp đi lặp lại phút này qua phút khác, năm này qua năm khác vẫn không thay đổi ǵ18*. Nếu một người, từ thuở nhỏ, suốt mười hai giờ liền (hoặc hơn nữa) trong mỗi ngày, chỉ làm đầu kim găm hoặc giũa các bánh xe răng cưa, đồng thời lại sống trong một t́nh cảnh như của người vô sản Anh; th́ đến tuổi ba mươi, anh ta c̣n giữ được bao nhiêu t́nh cảm và năng lực của con người? T́nh h́nh ấy vẫn không thay đổi sau khi sử dụng hơi nước và máy móc. Thao tác của công nhân được giảm nhẹ, bắp thịt không phải căng thẳng, bản thân lao động trở nên không đáng kể, nhưng lại đơn điệu tới cực độ. Công việc không để công nhân có được chút hoạt động tinh thần nào, lại luôn bắt họ phải tập trung chú ư, đến mức không được nghĩ đến ǵ khác, nếu muốn làm được chu đáo. Lao động bắt buộc như thế chiếm hết th́ giờ của công nhân, trừ th́ giờ tối thiểu để ăn và ngủ; không cho anh ta chút rảnh rỗi nào để hít thở không khí trong lành, tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên, chứ chưa nói đến hoạt động tinh thần; một thứ lao động như vậy làm sao không hạ con người xuống hàng súc vật? Công nhân lại phải chọn: hoặc là đầu hàng số phận, làm một "công nhân tốt", "trung thành" phục vụ lợi ích của người tư sản, như vậy anh ta chắc chắn sẽ trở thành con vật không có lí tính; hoặc là phản kháng, đem hết sức bảo vệ nhân phẩm của ḿnh, và anh ta chỉ có thể làm thế trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.

Các nguyên nhân ấy đă dẫn đến t́nh trạng suy đồi đạo đức nghiêm trọng trong giai cấp công nhân; ngoài ra, c̣n một yếu tố nữa làm cho t́nh trạng ấy càng lan rộng và lên đến cực độ: đó là sự tập trung nhân khẩu. Các nhà văn tư sản Anh kêu gào điên dại về ảnh hưởng trụy lạc của các thành phố lớn, những Jeremiah ngược đời ấy than văn không phải về cảnh lụi tàn của thành phố, mà về cảnh phồn vinh của nó. Tỉnh trưởng Alison hầu như đổ tất cả cho nguyên nhân ấy, bác sĩ Vaughan, tác giả quyển "Thời đại của các thành phố lớn" c̣n kết tội nặng hơn thế nữa. Điều đó là tất nhiên. Các nguyên nhân khác, có tác dụng phá hoại thân thể và tinh thần của người lao động, đều liên quan hết sức mật thiết với quyền lợi của giai cấp có của. Nếu các tác giả ấy thừa nhận: những nguyên nhân cơ bản là nghèo khổ, bất an, lao động cưỡng bức quá độ; th́ mọi người, và cả chính họ, sẽ phải tự bảo ḿnh: vậy hăy cho người nghèo có tài sản, hăy bảo đảm cho cuộc sống của họ, hăy ban hành các đạo luật chống lao động quá sức; nhưng giai cấp tư sản không thể đồng ư việc đó. Nhưng các thành phố lớn cứ tự động phát triển, người ta tới đó ở cũng hoàn toàn do tự nguyện; không phải ngay tức th́ đă có kết luận rằng: những thành phố lớn được tạo nên chỉ là do công nghiệp, và do giai cấp tư sản, nhờ có công nghiệp mà giàu lên; cho nên giai cấp thống trị càng dễ đổ mọi điều tai ác cho cái nguyên nhân dường như không thể loại trừ ấy. Thật ra, các thành phố lớn chỉ tạo ra những điều kiện, để cho các tội ác đă tồn tại từ trước, ít ra cũng mới chỉ ở trạng thái phôi thai, được phát triển nhanh chóng và đầy đủ hơn. Alison có đủ nhân đạo để công nhận điều ấy: ông ta không phải là loại tư sản công nghiệp, đảng viên Đảng tự do hoàn toàn thành thục, mà chỉ là người tư sản, đảng viên đảng Tory nửa thành thục; cho nên ông ta c̣n có lúc thấy rơ những sự vật, mà một người tư sản thực thụ hoàn toàn không nh́n thấy. Hăy nghe ông ta nói:

"Chính các thành phố lớn là nơi sức cám dỗ của những tật xấu và dục vọng đă dăng đầy lưới bẫy, tội ác được khuyến khích bởi hi vọng sẽ không bị trừng phạt, c̣n tính lười biếng được phát triển nhờ nhiều gương xấu. Chính ở đây, những trung tâm trụy lạc lớn này, những kẻ hư hỏng, những phường vô lại đă đến ở, để trốn tránh cuộc sống giản dị ở nông thôn; chính ở đây, chúng có thể t́m được nạn nhân cho những hành động hèn hạ của chúng, và việc mạo hiểm của chúng sẽ được đền đáp bằng sự kiếm chác dễ dàng. Ở đây đức hạnh bị vùi dập và d́m vào bóng tối, thói xấu v́ khó bị khám phá nên nảy nở sum suê, và lối sống phóng đăng được khuyến khích v́ vừa với túi tiền. Ai mà đi dạo ban đêm trong khu St. Giles, hay là các phố chật hẹp, đông đúc ở Dublin, hoặc các khu phố nghèo ở Glasgow; th́ sẽ t́m thấy thừa đủ bằng chứng để xác nhận những lời đó, sẽ không c̣n lấy làm lạ về cách sống bừa băi và những thú vui phóng đăng của các tầng lớp dưới; và sẽ ngạc nhiên, không phải v́ có quá nhiều, mà v́ có quá ít tội ác ở trên đời... Nguyên nhân chính của sự trụy lạc trong những thành phố lớn là sự ảnh hưởng từ gương xấu, việc khó cưỡng lại những cám dỗ của các tệ nạn, khi nó ở ngay bên cạnh, và thế hệ trẻ tiếp xúc với nó hàng ngày. Eo ipso19 người giàu cũng chẳng hơn ǵ người nghèo: nếu ở vào hoàn cảnh tương tự, họ cũng không chống lại được sức quyến rũ ấy; điều đặc biệt không may của người nghèo trong các thành phố lớn là: dù ở đâu, họ cũng không thể tránh tiếp xúc với sự mồi chài của thói xấu, với sự cám dỗ của những lạc thú tội lỗi... Quả thật, ở những thành phố lớn, không thể giữ cho thế hệ trẻ của giai cấp vô sản tránh được ma lực của các tệ nạn; đó là nguyên nhân của sự đồi bại về đạo đức".

Sau khi đă mô tả nhiều về đạo đức, tác giả viết tiếp:

"Những cái đó không phải do sự sa đọa tột độ nào, mà là do sức mạnh hầu như không cưỡng nổi của sự cám dỗ mà người nghèo gặp phải. Người giàu thường chê bai đạo đức của người nghèo, nhưng nếu chịu ảnh hưởng của những nguyên nhân ấy, th́ chính họ cũng sẽ sa ngă nhanh chóng không kém. Ở một mức độ bần cùng nào đó, trước sức mạnh cám dỗ như vậy, người ta khó giữ vững được phẩm hạnh của ḿnh, nhất là với thanh niên. Với những trường hợp ấy, sự lan truyền của thói xấu là tất yếu và thường nhanh chóng như bệnh truyền nhiễm của cơ thể".

Và ở một chỗ khác:

"Khi các giai cấp thượng đẳng, v́ lợi ích của ḿnh, tập trung rất đông người lao động vào một nơi chật hẹp, th́ thói xấu bắt đầu lan tràn nhanh chóng khác thường và không thể tránh được. Nếu xét tŕnh độ tôn giáo và đạo đức của các giai cấp bên dưới, th́ nhiều khi họ không đáng bị chê trách v́ đă sa ngă, cũng như không đáng bị chê trách v́ đă trở thành nạn nhân của bệnh thương hàn".20*

Thế là đủ! Alison, con người nửa tư sản, dù quan điểm bị hạn chế, cũng đă cho ta thấy những hậu quả tai hại của các thành phố đối với sự phát triển đạo đức của công nhân. Một tác giả khác, bác sĩ Andrew Ure21*, một nhà tư sản thực thụ, linh hồn của Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc, cho ta thấy một khía cạnh khác của những hậu quả ấy. Ông ta nói: đời sống ở các thành phố lớn làm cho các mưu đồ làm loạn nảy nở dễ dàng trong công nhân, và giúp đám b́nh dân có sức mạnh. Theo ư ông ta, nếu không giáo dục người lao động một cách thích đáng (tức là phục tùng giai cấp tư sản), th́ họ sẽ nh́n nhận sự vật một cách phiến diện, theo quan điểm ích kỉ ác độc, và dễ bị bọn mị dân xảo trá lừa bịp; họ c̣n có thể có thái độ ghen ghét và thù hằn đối với những ân nhân tốt nhất của ḿnh, là những nhà tư bản đạm bạc và tháo vát; chỉ có một nền giáo dục đúng đắn mới cứu văn nổi t́nh h́nh ấy, nếu không, sẽ xảy ra sự phá sản của dân tộc và nhiều tai họa khác, v́ không thể tránh khỏi cuộc cách mạng của công nhân. Nhà tư sản của chúng ta lo sợ là phải. Nếu sự tập trung dân số đă làm cho giai cấp có của phồn vinh và phát triển, th́ nó c̣n có ảnh hưởng lớn hơn đối với sự phát triển của công nhân. Công nhân bắt đầu cảm thấy ḿnh - về toàn thể - là một giai cấp; họ đă hiểu rằng đứng riêng lẻ th́ ḿnh yếu, nhưng khi đoàn kết lại th́ thành một lực lượng mạnh; điều này đă giúp họ tách ra khỏi giai cấp tư sản, những quan niệm và tư tưởng độc lập, đặc trưng cho công nhân và cho hoàn cảnh sinh sống của họ, được h́nh thành; công nhân bắt đầu hiểu về địa vị bị áp bức của ḿnh, và bắt đầu có tầm quan trọng về mặt xă hội và chính trị. Các thành phố lớn là nơi bắt nguồn của phong trào công nhân: ở đây, công nhân lần đầu tiên đă suy nghĩ về t́nh cảnh của ḿnh và đấu tranh để thay đổi nó; ở đây, sự đối lập về lợi ích giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản lần đầu đă biểu lộ ra; ở đây, những liên đoàn lao động, phong trào Hiến chương và chủ nghĩa xă hội đă ra đời. Bệnh tật của cơ thể xă hội, vốn là măn tính ở nông thôn, đă trở thành cấp tính ở các thành phố lớn; và nhờ đó mà thực chất của căn bệnh, và phương pháp cứu chữa, đă được t́m ra. Nếu không có các thành phố lớn, không có sự thúc đẩy của chúng đối với sự phát triển ư thức xă hội, th́ công nhân c̣n xa mới tiến bộ như ngày nay. Hơn nữa, các thành phố lớn c̣n xóa bỏ những tàn tích cuối cùng của quan hệ gia trưởng giữa thợ và chủ, nền đại công nghiệp cũng góp phần vào việc này, bằng cách làm tăng số lượng công nhân phụ thuộc vào một người tư sản. Giai cấp tư sản thực sự tiếc rẻ điều đó, mà cũng đúng thôi: những quan hệ trước kia hầu như đă đảm bảo cho họ tránh được sự phản kháng của công nhân. Người tư sản có thể bóc lột và đè nén công nhân của ḿnh bao nhiêu tùy thích, và c̣n có thể hi vọng những người chất phác ấy phục tùng, biết ơn và yêu mến hắn; nếu ngoài việc trả lương, hắn c̣n tỏ ra ân cần đôi chút, mà làm như vậy hắn chẳng mất ǵ; hoặc nếu hắn thực hiện vài điều phúc lợi vụn vặt, dường như là hoàn toàn do ḷng tốt đặc biệt của hắn, dù tất cả những cái ấy chưa đáng 1/10 cái mà hắn phải làm. Với tư cách một cá nhân riêng lẻ, đặt trong hoàn cảnh không do ḿnh tạo nên, có lẽ người tư sản cũng đă thực hiện phần nào nghĩa vụ của ḿnh; nhưng với tư cách một thành viên của giai cấp cầm quyền, và v́ là kẻ cầm quyền mà phải có trách nhiệm về t́nh cảnh của cả dân tộc, và phải quan tâm đến lợi ích chung; th́ người tư sản chẳng làm được việc ǵ mà địa vị đó buộc hắn phải làm, vả lại hắn c̣n bóc lột cả dân tộc nhiều hơn nữa, v́ lợi ích riêng của ḿnh. Quan hệ gia trưởng đă che đậy địa vị nô lệ của người thợ một cách giả nhân giả nghĩa, khi đó công nhân phải là một cá nhân tầm thường, đă chết về mặt tinh thần, không hiểu biết về lợi ích của bản thân ḿnh. Chỉ khi có sự xa cách giữa anh ta và chủ, khi đó rơ ràng là người chủ chỉ liên hệ với anh ta v́ lợi ích riêng, v́ theo đuổi lợi nhuận, khi các quan hệ thân ái giả tạo kia không vượt qua được chút thử thách nào, và đă hoàn toàn biến mất; chỉ khi đó, công nhân mới bắt đầu nhận thức được về địa vị và lợi ích của ḿnh, và bắt đầu phát triển độc lập; chỉ khi đó, về tư tưởng, t́nh cảm và nguyện vọng, anh ta mới thôi đi theo giai cấp tư sản một cách nô lệ. Có được kết quả này, chủ yếu là nhờ nền đại công nghiệp và các thành phố lớn.

Một yếu tố khác đă có ảnh hưởng quan trọng tới t́nh h́nh của công nhân Anh là sự nhập cư của người Ireland, mà ta từng nói tới. Sự nhập cư này, một mặt, như ta đă thấy, quả thật đă hạ thấp tŕnh độ của công nhân Anh, làm cho họ xa ĺa văn hóa, và khiến t́nh cảnh của họ thêm xấu đi; nhưng mặt khác, nó đă đào sâu thêm cái hố ngăn cách giữa công nhân và tư sản, do đó đă đẩy mạnh thêm cuộc khủng hoảng đang tới gần. Vấn đề là căn bệnh xă hội mà nước Anh mắc phải cũng có tiến tŕnh giống như bệnh của cơ thể: nó phát triển theo các qui luật nhất định, có những cơn nguy kịch, mà cơn cuối cùng và nặng nhất sẽ quyết định số phận của người bệnh. Và v́ dân tộc Anh không thể tiêu vong trong cơn nguy kịch cuối cùng ấy, mà phải thoát ra, phục hưng và đổi mới; nên ta chỉ có thể vui mừng trước mọi sự việc làm cho tiến tŕnh của căn bệnh ấy nguy kịch thêm. Ngoài ra, sự nhập cư của người Ireland c̣n góp phần vào việc này, bằng cách đem vào Anh, và truyền vào giai cấp công nhân Anh cái tính hăng say, sôi nổi của người Ireland. Người Ireland và người Anh khác nhau về nhiều mặt, cũng như người Pháp và người Đức vậy; sự tiếp xúc giữa người Ireland bồng bột, dễ xúc động và nóng nảy; với người Anh điềm đạm, tự chủ, biết suy tính đắn đo; rút cục chỉ có thể có lợi cho cả đôi bên. Tính ích kỷ tàn nhẫn của giai cấp tư sản Anh sẽ c̣n được duy tŕ lâu hơn nhiều cả trong giai cấp công nhân, nếu nó không bị pha trộn với tính hào hiệp đến mức có thể hi sinh quên ḿnh của người Ireland, vốn là do bản tính giàu t́nh cảm của họ; và nếu tính lănh đạm, thuần túy lí tính của người Anh không bị giảm đi, một mặt bởi sự pha trộn ḍng máu Ireland, mặt khác bởi sự tiếp xúc thường xuyên với người Ireland.

Khi đă biết những điều nói trên, ta sẽ không c̣n ngạc nhiên rằng giai cấp công nhân Anh dần trở thành một dân tộc khác hẳn với giai cấp tư sản Anh. Giai cấp tư sản có những điểm giống với tất cả các dân tộc khác trên trái đất, hơn là giống với những công nhân sống ngay cạnh nó. Công nhân nói một thổ ngữ khác, có những tư tưởng và quan niệm khác, có những phong tục và nguyên tắc đạo đức khác, có tôn giáo và đường lối chính trị khác, so với giai cấp tư sản. Hai dân tộc ấy hoàn toàn dị biệt đối với nhau, như là thuộc hai chủng người khác nhau; tới nay, người châu Âu lục địa chúng ta mới biết một dân tộc: giai cấp tư sản. Nhưng chính một dân tộc khác, giai cấp vô sản, lại quan trọng hơn nhiều với tương lai nước Anh22*.

Sau này, ta sẽ c̣n nói về tính cách xă hội của công nhân Anh, khi nó biểu hiện ra ở những đoàn thể và quan điểm chính trị của họ. Ở đây, ta chỉ bàn tới những kết quả của những nguyên nhân kể trên, trong chừng mực những kết quả ấy có ảnh hưởng đến tính cách cá nhân của công nhân. Trong đời sống hàng ngày, người công nhân đôn hậu hơn người tư sản rất nhiều. Tôi đă nói ở trên, là những người ăn mày thường chỉ cầu xin công nhân, và nói chung, công nhân đă cứu giúp người nghèo nhiều hơn giai cấp tư sản. Sự thật đó, mà ta có thể chứng kiến hàng ngày, cũng được nhiều người xác nhận, trong đó có thầy tu Parkinson ở Manchester. Ông nói như sau:

"Người nghèo cho nhau nhiều hơn là người giàu cho người nghèo. Để chứng minh điều này, tôi có thể viện dẫn một trong những thầy thuốc lớn tuổi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất, giỏi quan sát nhất và nhân đạo nhất của chúng ta, bác sĩ Bardsley. Ông đă công khai tuyên bố, là toàn bộ số tiền người nghèo cho nhau hàng năm lớn hơn số tiền người giàu cho người nghèo trong cùng thời gian ấy".23*

Ḷng nhân đạo của công nhân c̣n thể hiện ở nhiều h́nh thức tốt đẹp khác. Bản thân họ cũng từng phải chịu số phận ngặt nghèo, nên họ cảm thông với những người khổ cực. Đối với họ th́ ai cũng là người, c̣n đối với người tư sản th́ công nhân chưa hoàn toàn là người. Thế nên công nhân dễ gần hơn, thân thiện hơn, và không tham tiền như giai cấp có của, dù túng thiếu hơn giai cấp ấy; đối với họ, giá trị của tiền bạc là ở chỗ nó mua được cái ǵ, c̣n đối với người tư sản th́ tiền có một giá trị đặc hữu, một giá trị thần thánh, làm cho người tư sản trở thành "kẻ kiếm tiền" nhơ nhuốc, ti tiện. Công nhân không hề có tư tưởng sùng bái đồng tiền, không tham lam như người tư sản, kẻ sẵn sàng làm bất cứ ǵ để kiếm được nhiều tiền hơn, kẻ chỉ có một mục đích trong đời là làm đầy thêm túi tiền của ḿnh. Thế nên so với người tư sản, th́ công nhân ít thành kiến hơn nhiều, dễ tiếp thu hiện thực hơn nhiều, và không nh́n mọi thứ qua lăng kính lợi ích cá nhân. Sự thiếu giáo dục giúp công nhân tránh khỏi những thiên kiến tôn giáo; v́ không hiểu ǵ về những vấn đề tôn giáo, nên anh ta chẳng phải nghĩ nát óc về những vấn đề ấy, anh ta rất xa lạ với thứ cuồng tín mà người tư sản mắc phải, nếu anh ta có theo đạo th́ chỉ trên lời nói, thậm chí cũng không phải là trong lĩnh vực lí luận; trên thực tế, công nhân chỉ sống v́ những lợi ích thế tục, và mong được khá hơn một chút trong thế giới này. Mọi văn sĩ tư sản đều nhất trí là công nhân không có tôn giáo và không đi nhà thờ. Chỉ có người Ireland, một ít người lớn tuổi và người nửa tư sản: cai thợ, đốc công và những người tương tự, là ngoại lệ. C̣n đại bộ phận th́ hầu như chẳng quan tâm đến tôn giáo; nếu có th́ nhiều lắm cũng chỉ là qua lời nói suông, hoặc qua nỗi lo sợ vô căn cứ trước những từ như infidel ("kẻ vô đạo") hoặc kẻ vô thần. Giới tu hành của mọi phái đều bị công nhân rất coi khinh, dù họ chỉ vừa mới mất ảnh hưởng với người lao động, nhưng ngày nay thường chỉ cần nói: "He is a parson!" ("Nó là cố đạo đấy!") là đủ để đuổi một giáo sĩ ra khỏi diễn đàn của những cuộc hội họp công cộng. Sự thiếu sót về giáo dục tôn giáo và về các mặt giáo dục khác, cũng như chính những điều kiện sinh sống, đă khiến cho công nhân khách quan hơn, ít bị ràng buộc bởi những thành kiến và nguyên tắc cũ rích, cố định, so với người tư sản. Người tư sản ngụp đầu trong những thành kiến giai cấp, những nguyên tắc hắn được nhồi nhét từ thuở nhỏ, đối với hắn th́ không thể làm khác được; ngay cả khi mang cái vỏ tự do, thực chất hắn vẫn là bảo thủ; lợi ích của hắn gắn liền với chế độ hiện hành, và đối với mọi trào lưu tiến bộ, hắn là người đă chết. Hắn không c̣n đứng ở hàng đầu của sự phát triển lịch sử, và công nhân thay thế hắn ở chỗ ấy, thoạt đầu là về quyền hạn, và sau này là trên thực tế.

Những điều ấy, cùng với các hoạt động xă hội nảy sinh từ đó của công nhân (ta sẽ nói về các hoạt động ấy sau), tạo nên mặt tích cực trong tính cách của giai cấp này; mặt tiêu cực có thể tổng kết sơ lược, và nó cũng nảy sinh một cách hoàn toàn tự nhiên, từ những nguyên nhân nói trên. Rượu chè, phóng đăng về t́nh dục, thô bạo, và thiếu tôn trọng quyền sở hữu, đó là những tội chính mà người tư sản buộc cho công nhân. Công nhân uống rượu nhiều là hoàn toàn tự nhiên. Tỉnh trưởng Alison xác nhận rằng ở Glasgow mỗi tối thứ bảy có trên ba vạn công nhân say rượu, con số ấy chắc không phải là phóng đại; cũng ở Glasgow, năm 1830 cứ mười hai nhà, đến năm 1840, cứ mười nhà có một quán rượu; ở Scotland, năm 1823 đă đánh thuế tiêu thụ vào 2.300.000 gallon rượu, năm 1837 là 6.620.000 gallon; ở Anh năm 1823 là 1.976.000 gallon, năm 1837 là 7.875.000 gallon24*. Đạo luật về rượu bia ban hành năm 1830 đă làm cho các quán gọi là jerry-shop, bán rượu bia uống tại chỗ, dễ dàng mọc lên khắp nơi; và cũng làm cho nạn say rượu lan rộng thêm, v́ gần như tại cổng mỗi nhà đều có quán rượu. Ở hầu hết các phố đều có vài quán như thế; và ở ngoại ô, nơi nào có hai ba nhà liền nhau, th́ chắc chắn có một nhà là jerry-shop. Ngoài ra c̣n có nhiều hush-shop, là những quán bán rượu lén lút, bán không có giấy phép; và ở ngay trung tâm các thành phố lớn, trong các khu hẻo lánh, ít bị cảnh sát kiểm tra, có nhiều nơi nấu rượu lậu với sản lượng rất lớn. Gaskell, ở tác phẩm nói trên, ước tính là riêng ở Manchester có trên một trăm nơi như vậy, sản xuất hàng năm ít ra là 156.000 gallon. Ngoài ra, ở Manchester c̣n có trên một ngh́n quán rượu, như vậy th́, tính theo tỉ lệ với số nhà cửa, ít ra cũng bằng ở Glasgow. Ở tất cả các thành phố lớn khác, t́nh h́nh cũng vậy. Chưa nói đến những hậu quả thường thấy của tệ nghiện rượu, chỉ cần chú ư là, ở những nơi đó, đàn ông, đàn bà đủ mọi lứa tuổi, kể cả trẻ con, thường có cả những bà mẹ bồng con, tiếp xúc với những nạn nhân sa đọa nhất của chế độ tư sản: bọn kẻ cắp, bịp bợm, gái điếm; chỉ cần nhớ là nhiều bà mẹ đă cho đứa con c̣n bồng trên tay uống rượu; th́ không thể chối căi rằng các nơi đó đă làm bại hoại đạo đức những khách hàng của nó. Nhất là tối Thứ bẩy, lương đă lĩnh rồi, tan tầm cũng sớm hơn ngày thường một chút, tất thảy giai cấp công nhân, từ các khu nhà ổ chuột của họ, đổ ra các phố chính, th́ có thể nh́n thấy tất cả cái thô bạo của tệ nghiện rượu. Ở Manchester những tối đó, ít khi tôi ra đường mà không gặp rất nhiều người say rượu đi loạng choạng, hoặc ngă gục trong các rănh nước. Tối chủ nhật, cảnh tượng ấy thường lặp lại, có điều là bớt ầm ĩ hơn. Khi đă tiêu hết tiền, người nghiện rượu chạy tới tiệm cầm đồ gần nhất - mỗi thành phố lớn đều có nhiều tiệm cầm đồ như vậy, ở Manchester có tới trên sáu mươi, và riêng một phố ở Salford (phố Chapel) đă có từ mười đến mười hai tiệm - để cầm cố mọi thứ c̣n lại. Đồ đạc, quần áo ngày lễ nếu có, bát đĩa, cứ đến Thứ bảy là một lượng lớn những thứ đó được chuộc về, và tới trước Thứ tư tuần sau, hầu hết chúng sẽ trở lại tiệm cầm đồ; đến khi có chuyện bất ngờ nào đó, làm cho họ không thể chuộc lại nữa, và hết vật này tới vật khác rơi vào tay người cho vay nặng lăi, hoặc đến khi người chủ tiệm không muốn bỏ thêm xu nào để cầm những đồ cũ nát, vô dụng. Ai đă tận mắt nh́n thấy tệ nghiện rượu lan tràn trong công nhân Anh, th́ sẽ dễ tin lời huân tước Ashley25*, rằng công nhân đă tiêu hàng năm 25 triệu Bảng để uống rượu. Rất dễ h́nh dung được tệ nghiện rượu đă làm cho t́nh cảnh vật chất của công nhân sút đi bao nhiêu, đă có ảnh hưởng tồi tệ ra sao đối với sức khoẻ thể chất và tinh thần của họ, đă phá hoại những quan hệ gia đ́nh đến thế nào. Thực ra các hội chống nghiện rượu có hoạt động nhiều, nhưng vài ngh́n "Teatotaller"26 đă là ǵ so với hàng triệu công nhân? Khi cha Matthew, nhà tuyên truyền chống nghiện rượu người Ireland, đi khắp các thành phố Anh, th́ đă có từ ba vạn tới sáu vạn công nhân xin "pledge" (thề), nhưng chưa đầy một tháng sau, đa số những người ấy đă quên lời thề. Nếu cộng xem có bao nhiêu người ở Manchester trong ba, bốn năm gần đây đă xin thề bỏ rượu như thế, sẽ được một con số lớn hơn cả số dân của thành phố ấy, nhưng vẫn không thấy tệ nghiện rượu giảm đi đáng kể.

Một tật xấu lớn khác của nhiều công nhân Anh, bên cạnh chuyện rượu chè vô độ, là tính dâm đăng trong quan hệ nam nữ. Tệ nạn ấy nảy sinh với tính tất yếu sắt đá, không sao tránh khỏi; từ trong t́nh cảnh của một giai cấp đă bị xă hội bỏ mặc, và phải tự lo cho ḿnh; nhưng lại thiếu hẳn những phương tiện cần thiết, để sử dụng cái tự do ấy sao cho thích đáng. Giai cấp tư sản bắt họ chịu đựng nhiều nặng nhọc và đau khổ, chỉ dành cho họ hai thú vui ấy. V́ vậy, công nhân dốc toàn bộ nhiệt t́nh vào hai thú vui ấy, để truy hoan vô độ và hỗn loạn, để ít ra cũng được hưởng chút ǵ của cuộc sống. Khi con người bị đặt vào một hoàn cảnh chỉ đáng dành cho súc vật, th́ họ chỉ có thể chọn: vùng lên phản kháng hoặc là thực sự trở thành súc vật. Hơn nữa, khi mà chính giai cấp tư sản, ngay cả những vị đại diện đáng kính của giai cấp ấy, đă trực tiếp góp phần phát triển nạn mại dâm? Trong số bốn vạn gái điếm, mỗi đêm đứng đầy các phố ở London27*, có bao nhiêu người sống nhờ vào giai cấp tư sản đức hạnh? Có bao nhiêu người đă cảm ơn kẻ quyến rũ họ lần đầu tiên, chính là người tư sản, về việc ngày nay, họ phải bán thân cho mỗi khách qua đường, để khỏi chết đói? Chính giai cấp tư sản lại càng ít có quyền chê trách công nhân về thói dâm ô trụy lạc, điều đó chẳng rơ ràng hay sao?

Nói chung, các nhược điểm chính của công nhân là: hưởng lạc vô độ, thiếu lo xa, thiếu tôn trọng trật tự xă hội; tóm lại là thiếu khả năng hi sinh những lạc thú trước mắt, v́ những lợi ích xa xôi hơn. Nhưng thế th́ có ǵ lạ? Một giai cấp gồm những người làm lụng cực nhọc, và chỉ được hưởng thụ một phần rất ít, mà lại toàn những thú vui thể xác; họ sao có thể không lao vào các thú vui đó một cách mù quáng và điên loạn? Nếu không ai quan tâm tới việc giáo dục giai cấp ấy, nếu số phận của những thành viên riêng lẻ trong giai cấp ấy tùy thuộc vào đủ thứ may rủi, nếu họ không thể tin vào ngày mai; th́ v́ lí ǵ, v́ lợi ích ǵ, mà họ phải lo xa, phải sống cuộc đời "đúng đắn", phải hi sinh những thú vui trước mắt cho những thú vui tương lai, cái thú vui mà thực ra không có ǵ đảm bảo là họ sẽ được hưởng, trong một hoàn cảnh luôn bấp bênh và thay đổi? Một giai cấp đă phải chịu mọi thiệt tḥi của trật tự xă hội, và không được hưởng chút lợi ích ǵ từ trật tự ấy, một giai cấp đă bị trật tự xă hội đối xử một cách thù hằn; vậy mà c̣n đ̣i họ phải tôn trọng trật tự ấy, th́ thật quá quắt! Nhưng một khi trật tự xă hội ấy c̣n tồn tại, th́ giai cấp công nhân không thể tránh khỏi nó; và nếu có một công nhân cá biệt nào nổi lên chống lại, th́ chính anh ta sẽ phải chịu tai họa lớn nhất. Chính vậy, trật tự xă hội đă khiến cho công nhân hầu như không thể có đời sống gia đ́nh. Trong một gian nhà bẩn thỉu, không có tiện nghi, thậm chí chưa đáng làm chỗ ngủ, đồ đạc tồi tàn, thường không che nổi mưa gió, không được sưởi ấm, thiếu không khí, quá đông người ở; th́ không thể có hạnh phúc gia đ́nh. Chồng làm việc cả ngày, vợ và các con lớn thường cũng vậy, họ đều làm ở những nơi khác nhau, chỉ gặp nhau vào sáng sớm và buổi tối, thêm nữa, lại luôn bị rượu chè lôi cuốn; trong hoàn cảnh như vậy, đời sống gia đ́nh sẽ ra sao? Nhưng người công nhân lại không thể tách khỏi gia đ́nh, anh ta phải sống trong gia đ́nh, do đó thường xảy ra bất ḥa và căi cọ trong nhà, gây nên ảnh hưởng rất đồi bại, không những đối với vợ chồng, mà đặc biệt là đối với con cái. Lơ là mọi bổn phận gia đ́nh, nhất là những bổn phận đối với con cái, là hiện tượng rất phổ biến trong công nhân Anh, và chủ yếu là do chế độ xă hội hiện hành gây ra. Thế mà người ta c̣n muốn những đứa trẻ không ai dạy dỗ, lớn lên trong cảnh trụy lạc mà chính cha mẹ chúng cũng thường mắc phải, sau này sẽ trở thành những người có đạo đức tốt! Những yêu cầu mà người tư sản tự măn đặt ra cho công nhân quả thật quá ngây thơ!

Biểu hiện rơ rệt và cực đoan nhất của sự coi thường trật tự xă hội là việc phạm tội. Nếu các nguyên nhân làm bại hoại đạo đức của công nhân tác động mạnh mẽ và tập trung hơn b́nh thường, th́ anh ta chắc chắn sẽ phạm tội, cũng như nước đun tới 100 độ C th́ phải sôi. Do cách đối xử thô bạo, làm ngu muội con người của giai cấp tư sản; công nhân cũng trở thành một vật vô tri, như là nước; và cũng tất yếu phải chịu sự chi phối của những quy luật tự nhiên, tới khi anh ta mất mọi quyền tự do. Vậy là số tội phạm ở Anh tăng lên cùng với số người vô sản, và dân tộc Anh trở nên nhiều tội phạm nhất thế giới. Qua "những bảng thống kê tội trạng" được Bộ Nội vụ công bố hàng năm, ta thấy số tội phạm ở Anh tăng nhanh đến không thể tưởng tượng nổi. Số vụ bắt giam về tội h́nh riêng ở Anh và Wales đă là:
NămSố vụ
18054605
18105146
18157818
182013.710
182514.437
183018.107
183520.731
184027.187
184127.760
184231.309
Nói cách khác, trong 37 năm, số vụ bắt giam đă tăng bẩy lần. Trong số vụ bắt giam năm 1842, riêng Lancashire có 4497 vụ, tức là hơn 14%, và ở Middlesex (bao gồm cả London) có 4049 vụ, tức là hơn 13%. Vậy, ta thấy rằng chỉ riêng hai khu vực có những thành phố lớn, đông đảo dân vô sản, đă có tới trên 1/4 tổng số vụ phạm tội của cả nước, tuy rằng dân số ở đó c̣n xa mới bằng 1/4 tổng số dân cả nước. Qua các bản thống kê tội trạng, c̣n có thể thấy rơ là phần lớn các vụ phạm tội rơi vào giai cấp vô sản: năm 1842: 32,35% số tội nhân không biết đọc biết viết; 58,82% biết chút ít; 6,77% đọc, viết khá; 0,22% được học cao; c̣n 2,34% th́ không xác định được tŕnh độ học vấn. Ở Scotland, số vụ phạm tội c̣n tăng nhanh hơn: năm 1819, có 89 vụ; năm 1837, có 3176 vụ; năm 1842, có 4189 vụ. Ở Lanarkshire, chính tỉnh trưởng Alison làm báo cáo chính thức về vấn đề này; trong ba mươi năm dân số tăng gấp đôi, c̣n số vụ phạm tội th́ cứ 5 năm rưỡi lại tăng gấp đôi, như vậy là số tội phạm tăng nhanh hơn số dân tới sáu lần. Phần lớn các vụ phạm tội, như ở tất cả các nước văn minh khác, là tội vi phạm quyền sở hữu, tức là những tội do thiếu thốn cái này cái khác mà sinh ra, v́ chẳng ai đi ăn cắp cái ḿnh đă có. Tỉ lệ giữa số tội vi phạm quyền sở hữu với số dân là 1/7.140 ở Hà Lan, 1/1.804 ở Pháp; ở Anh, vào khoảng thời ḱ Gaskell viết cuốn sách của ông, là 1/799. Tỉ lệ giữa số tội hành hung người với số dân: ở Hà Lan là 1/28.904, ở Pháp là 1/17.573, ở Anh là 1/23.395; tỉ lệ giữa tổng số vụ phạm tội nói chung với số dân, ở các khu nông nghiệp là 1/1.043, ở các khu công xưởng là 1/84028*; hiện nay, ở toàn nước Anh, tỉ lệ đó gần tới 1/66029*, mà từ khi quyển sách của Gaskell được xuất bản tới nay mới chưa quá mười năm!

Những sự thật ấy đă quá đủ để buộc mỗi người, kể cả người tư sản, phải suy nghĩ về những hậu quả của một t́nh trạng như vậy. Nếu sự suy đồi về đạo đức và sự phạm tội cứ tăng lên theo tỉ lệ như vậy trong hai mươi năm nữa; và nếu trong hai mươi năm đó, công nghiệp Anh lại sa sút so với các năm trước, th́ số vụ phạm tội sẽ chỉ có tăng; th́ kết quả sẽ là ǵ? Ngay lúc này, ta đă thấy xă hội hoàn toàn mục nát; ngay lúc này, ta đă không thể giở một tờ báo nào, mà không thấy những ví dụ rơ nhất về sự lỏng lẻo của mọi quan hệ xă hội. Trong đống báo Anh để ở trước mắt, tôi chọn ngẫu nhiên một số. Đây là tờ "Manchester Guardian", số ra ngày 30 tháng Mười 1844, đăng tin tức của ba ngày. Tờ báo đă không buồn cung cấp tỉ mỉ tin tức về Manchester, mà chỉ chọn những thứ hấp dẫn nhất: trong một nhà máy, công nhân băi công để đ̣i tăng lương, nhưng thẩm phán ḥa giải đă bắt họ trở lại làm việc; ở Salford có vài đứa trẻ đi ăn cắp, một thương nhân vỡ nợ t́m cách lừa đảo chủ nợ. Có những tin tức tỉ mỉ hơn ở các thành phố lân cận: ở Ashton có hai vụ trộm thường, một vụ phá cửa trộm đồ, một vụ tự sát; ở Bury có một vụ ăn cắp; ở Bolton có hai vụ ăn trộm và một vụ trốn thuế tiêu thụ, ở Leigh có một vụ ăn cắp; ở Oldham có một cuộc băi công v́ vấn đề lương, một vụ trộm, một vụ đánh nhau giữa mấy phụ nữ người Ireland, một người thợ mũ không gia nhập nghiệp đoàn nên bị các đoàn viên của nghiệp đoàn đánh, một bà mẹ bị con đánh; ở Rochdale có một loạt vụ đánh nhau, một vụ đánh cảnh sát, một vụ cướp nhà thờ; ở Stockport có một vụ bất măn của công nhân về tiền lương, một vụ trộm, một vụ lừa đảo, một vụ đánh nhau, một người chồng đánh vợ; ở Warrington có một vụ ăn cắp, một vụ đánh nhau; ở Wigan có một vụ trộm, một vụ cướp nhà thờ. Tin tức trên các báo London c̣n tệ hơn nhiều. Ở đây thấy liên tiếp đủ thứ gian lận, trộm cướp, căi nhau trong gia đ́nh. Tôi t́nh cờ cầm tờ "Times", số ra ngày 12 tháng Chín 1844, đăng tin tức của một ngày; trong đó có một vụ trộm, một vụ đánh cảnh sát, một vụ cha mẹ bỏ rơi con, một vụ xử cha bỏ rơi con ngoài giá thú, một vụ vợ đầu độc chồng. Trên mọi tờ báo Anh đều có những vụ việc tương tự. Cuộc chiến tranh xă hội ở Anh đang diễn ra kịch liệt. Mỗi người đều bảo vệ ḿnh, v́ ḿnh mà đấu tranh chống mọi kẻ khác; mỗi người có làm hại tới những người khác, mà anh ta coi là kẻ thù, hay không; điều này chỉ tùy vào sự tính toán ích kỉ, xem đằng nào có lợi cho ḿnh hơn. Chẳng ai nghĩ tới việc sống ḥa thuận với người cạnh ḿnh, mọi tranh chấp đều được giải quyết bằng đe dọa, tự trả thù, hoặc kiện cáo. Tóm lại, mỗi người đều coi người khác như kẻ thù, cần phải gạt khỏi đường đi của ḿnh; hoặc tốt nhất là như một phương tiện, có thể sử dụng cho lợi ích của ḿnh. Và cuộc chiến tranh ấy, như các bảng thống kê tội trạng đă chỉ rơ, mỗi năm lại thêm kịch liệt, gay gắt và tàn khốc; các bên thù địch dần chia thành hai phe lớn đấu tranh với nhau: bên này là giai cấp tư sản, bên kia là giai cấp vô sản. Cuộc chiến tranh của mọi người chống mọi người, và cuộc chiến tranh của giai cấp tư sản chống giai cấp vô sản, không làm ta ngạc nhiên, v́ nó chỉ là sự thực hiện triệt để cái nguyên lí của tự do cạnh tranh. Nhưng điều làm ta ngạc nhiên, là giai cấp tư sản vẫn thản nhiên và bàng quan, dù những đám mây băo ngày càng đặc kịt lại trên đầu họ; giai cấp ấy hàng ngày đọc được những chuyện đó trên báo, mà không hề cảm thấy chút lo ngại về những hậu quả của nó, về sự bùng nổ chung của những cái đă tự thể hiện một cách riêng rẽ trong từng vụ phạm tội, chứ chưa nói đến sự căm phẫn đối với chế độ xă hội hiện hành. Chính v́ nó là giai cấp tư sản, và với quan điểm của nó, nên nó không hiểu được ngay cả những sự việc, nói ǵ đến những hậu quả. Thật khó tin là những thành kiến giai cấp và những quan điểm cũ kĩ có thể làm mù quáng toàn bộ một giai cấp đến thế, tôi có thể nói là đến mức điên rồ. Nhưng sự phát triển của dân tộc cứ tiến theo con đường của nó, không phụ thuộc vào việc giai cấp tư sản có thấy điều đó hay không; và một ngày kia, sự phát triển ấy sẽ đem đến những điều ngạc nhiên cho giai cấp có của, mà ngay cả những học giả của họ cũng không thể mơ tới.

Chú thích

1* Ở đây, cũng như các chỗ khác, khi nói đến xă hội, hiểu theo nghĩa là một tập thể có trách nhiệm, có quyền lợi và nghĩa vụ, th́ dĩ nhiên là tôi nói đến bộ phận đang nắm chính quyền trong xă hội, tức là giai cấp lúc ấy đang nắm quyền thống trị về chính trị và xă hội, v́ vậy mà phải chịu trách nhiệm về t́nh cảnh của những người mà nó không cho tham gia chính quyền. Giai cấp thống trị ấy, ở Anh, cũng như các nước văn minh khác, là giai cấp tư sản. Nhưng xă hội, đặc biệt là giai cấp tư sản, có nhiệm vụ bảo vệ, ít nhất là về tính mạng, cho mọi thành viên của xă hội, chẳng hạn như làm thế nào để không ai chết đói; cái đó tôi không cần chứng minh cho các độc giả người Đức của tôi. Nếu tôi viết cho giai cấp tư sản Anh th́ hẳn là sẽ khác (Chú thích của Engels cho lần xuất bản năm 1845).

Hiện nay, t́nh h́nh nước Đức cũng như vậy. Năm 1886 hạnh phúc, các nhà tư bản của nước Đức chúng ta đă hoàn toàn đạt đến tŕnh độ của nước Anh, ít ra là về phương diện này (Engels viết thêm cho lần xuất bản ở Mỹ năm 1887).

(Năm 1892) Từ năm chục năm nay, mọi cái đă thay đổi biết bao! Ngày nay, có những nhà tư sản Anh đă thừa nhận là xă hội có trách nhiệm đối với các thành viên riêng biệt của nó, nhưng c̣n những nhà tư sản Đức?!? (Engels viết thêm cho bản tiếng Đức năm 1892).

2* Bác sĩ Alison: "Biện pháp bảo trợ người nghèo ở Scotland".

3* Bác sĩ Alison, trong báo cáo đọc tại phiên họp của Hội liên hiệp Britain v́ sự Tiến bộ của Khoa học, ở York, tháng Mười 1844.

4* Alison, "Những nguyên lư về dân số" t. II (Chú thích của Engels cho bản in ở Mĩ năm 1887).

5* "Dân cư công nghiệp ở Anh", chương 8.

6 Một dung dịch gồm 10% thuốc phiện và 1% morphine ḥa trong rượu, c̣n có tên là "cồn thuốc phiện" (Chú thích của người dịch).

7* "Report of Commission of Inquiry into the Employment of Children and Young Persons in Mines and Collieries and in the Trades and Manufactures in which Numbers of them work together, not being included under the Terms of the Factories Regulation Act". First and Second Reports. ["Báo cáo của Tiểu ban điều tra về t́nh h́nh sử dụng trẻ em và thiếu niên trong các hầm mỏ và mỏ than, cũng như trong các ngành sản xuất và trong các công xưởng có đông trẻ em làm việc nhưng không bị ràng buộc bởi đạo luật hạn chế lao động trong các công xưởng". Bản thứ nhất và thứ hai]. Báo cáo của Grainger nằm trong bản thứ nhất. Thường được trích dưới nhan đề "Báo cáo của Tiểu ban điều tra về lao động trẻ em" ("Children's Employment Commission's Report"). Đó là một trong những báo cáo chính thức tốt nhất, chứa đựng rất nhiều sự kiện có giá trị nhất, nhưng cũng khủng khiếp nhất. Bản thứ nhất công bố năm 1841, bản thứ hai công bố 2 năm sau.

8* "Fifth Annual Report of Reg. Gen. of Births. Deaths and Marriages" ["Bản báo cáo hàng năm thứ 5 của sở đăng kư sinh, tử và kết hôn"].

9* Bác sĩ Cowan, "Thống kê số sinh đẻ và tử vong ở Glasgow" (Chú thích của Engels cho bản in ở Mĩ năm 1887).

10* Xem "Report of Commission of Inquiry into the State of large Towns and populous Districts". first Report, 1844. Appendix ["Báo cáo của Tiểu ban điều tra t́nh h́nh các thành phố lớn và các khu đông dân", bản thứ nhất, 1844. Phụ lục].

11* "Báo cáo của Tiểu ban về công xưởng", tập III, báo cáo của bác sĩ Hawkins về Lancashire. Ở đây có dẫn ra bằng chứng của bác sĩ Roberton, "người có uy tín nhất ở Manchester về mặt thống kê".

12 Con số này giữa các bản tiếng Anh, tiếng Việt và tiếng Đức có khác nhau. Bản tiếng Anh và tiếng Đức đều ghi là 77, do đó tổng số tử vong chỉ là 9900 (chứ không phải 10.000 như tác giả đă nêu), c̣n bản tiếng Việt ghi là 177. Người dịch chọn số 177 v́ cho rằng nó chính xác nhất (Chú thích của người dịch).

13 "Trường học quốc dân" (Chú thích của người dịch).

14* "Nghề thủ công và thợ thủ công".

15* "Những nguyên lư về dân số", t. II, tr. 196-197.

16* Sau này, ta sẽ thấy cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản ở Anh đă được hợp pháp hóa nhờ quyền tự do lập hội.

17* "Phong trào Hiến chương", tr. 34 và tiếp theo.

18* Ở đây không biết có nên đưa ra những bằng chứng của những người tư sản có uy tín hay không? Tôi chỉ lấy một ví dụ mà ai cũng có thể dễ dàng t́m thấy trong quyển sách của Adam Smith "Sự giàu có của các dân tộc", t. III, quyển 5, chương 1, tr. 297; lần xuất bản thành 4 tập của McCulloch.

19 "Đương nhiên là" (Chú thích của người dịch).

20* "Những nguyên lư về dân số", t. II, tr. 76 và tiếp theo, tr. 135.

21* "Philosophy of Manufactures", London, 1835 ["Triết học về công xưởng", London, 1835]. Sau đây, ta sẽ c̣n nói tới cuốn sách nổi tiếng ấy. Những đoạn dẫn ra ở đây lấy ở tr. 406 và các trang tiếp theo.

22* (Năm 1892) Tư tưởng cho rằng nền đại công nghiệp đă chia người Anh thành hai dân tộc khác nhau đă được Disraeli tŕnh bày, như mọi người đều biết, gần như cùng lúc với tôi, trong cuốn tiểu thuyết của ông "Sybil, or the Two Nations" ["Sybil, hay là hai dân tộc"] (Chú thích của Engels cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1892).

23* "On the present Condition of the Labouring Poor in Manchester etc", By the Rev. Rd. Parkinson, Canon of Manchester 3rd. edit. London and Manchester, 1841. Pamphlet ["Về t́nh cảnh hiện nay của người lao động nghèo ở Manchester v.v.". Sách của thầy tu Parkinson ở Manchester, xuất bản lần thứ 3, London và Manchester, 1841].

24* "Những nguyên lư về dân số".

25* Diễn văn đọc ở Hạ viện ngày 28 tháng Hai 1843.

26 "Người không uống rượu" (Chú thích của người dịch).

27* Tỉnh trưởng Alison, "Những nguyên lư về dân số", t. II.

28* "Dân cư công nghiệp ở Anh", chương 10.

29* Số tội nhân đă thành án (22.733) chia cho số dân (khoảng 15 triệu).


[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương sau]